Danh mục bài soạn

Văn mẫu lớp 8: Thuyết minh về cây tre

Chuyên mục: Văn mẫu lớp 8

Đề bài: Thuyết minh về cây tre. Theo đó, hocthoi gửi đến các bạn 3 dàn ý + bài văn mẫu để các bạn có thể tham khảo. Từ đó, giúp các bạn có những bài văn hay nhất cho riêng mình

[toc:ul]

Bài mẫu 1: Thuyết minh về cây tre

Thuyết minh về cây tre

Dàn ý

1. Mở bài

  • Giới thiệu chung về cây tre.

2. Thân bài

Nguồn gốc và những đặc điểm của cây tre

  • Nguồn gốc: tre là một trong số những loài cây thuộc bộ Hòa thảo, họ tre, thuộc nhóm thực vật nhóm thực vật thân xanh, sống lâu năm
  • Tre có nhiều loại khác nhau như tre mạnh tông, tre gai, tre vàng sọc, tre tàu và trúc
  • Những đặc điểm cơ bản của cây tre:
    • Rễ chùm, thường sống rất lâu
    • Sống thành từng lũy, từng khóm chứ không sống riêng rẽ từng cây một
    • Thân tre thường cao từ 8 đến 10 mét và thẳng đứng, nhẵn bóng, rỗng ở bên trong và chia thành nhiều đốt khác nhau, mỗi đốt có độ dài khoảng 10 xăng-ti-mét
    • Lá tre dài, mỏng, dẹt và có một đầu nhọn sắc. Màu sắc của lá tre thay đổi theo thời gian.
    • Tre là loài cây có hoa nhưng hoa tre chỉ xuất hiện một lần duy nhất vào cuối đời của cây tre.

Vai trò, vị trí và ý nghĩa của cây tre

  • Trong những năm tháng kháng chiến ác liệt của dân tộc, tre trở thành người bạn đồng hành, cùng chiến đấu và chúng kiến biết bao hi sinh, mất mát cùng những chiến thắng oanh liệt của dân tộc ta
  • Tre còn là loài cây được sử dụng nhiều trong cuộc sống lao động và sinh hoạt hằng ngày của người dân quê Việt Nam: làm cột kèo trong các ngôi nhà, làm rổ rá, làm giá để dồ, làm chõng, làm máng nước, bờ rào,… và nhiều vật dụng khác trong sản xuất nông nghiệp
  • Tre được dùng để chế tác đồ mĩ nghệ thủ công, làm đũa tre, tăm tre. Nhiều sản phẩm sản xuất từ tre đã được xuất khẩu ra nước ngoài, mang lại hiệu quả cao về kinh tế.
  • Được nhắc tới nhiều trong các tác phẩm thơ ca và là biểu tượng xuất sắc cho những vẻ đẹp của người dân Việt Nam – đoàn kết, tình nghĩa, kiên cường, giàu ý chí, nghị lực vươn lên

3. Kết bài

  • Khái quát về cây tre Việt Nam và nêu cảm nghĩ của bản thân về nó.

Bài viết

Tre xanh xanh tự bao giờ

Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh.

Hai câu thơ ấy như đã khái quát một cách đầy đủ nhất về hình ảnh cây tre vốn quen thuộc, bình dị và gần gũi với những làng quê Việt Nam. Và để rồi, mỗi lần nhắc tới chốn làng quê bình yên ấy mỗi người chúng ta lại nhớ đến hình ảnh cây tre như một lẽ tự nhiên.

Tre là loài cây có từ lâu đời ở hầu hết các vùng quê trên đất nước Việt Nam. Xét về nguồn gốc, tre là một trong số những loài cây thuộc bộ Hòa thảo, họ tre. Đồng thời, nó là thuộc nhóm thực vật nhóm thực vật thân xanh, sống lâu năm. Tre có nhiều loại khác nhau như tre mạnh tông, tre gai, tre vàng sọc, tre tàu và trúc, song chúng đều mang những đặc điểm chung. Trước hết, tre là một trong số những loài cây rễ chùm, thường sống rất lâu và sống thành từng lũy, từng khóm chứ không sống riêng rẽ từng cây một. Thân tre thường cao từ 8 đến 10 mét và thẳng đứng, nhẵn bóng, chia thành nhiều đốt khác nhau, mỗi đốt có độ dài khoảng 10 xăng-ti-mét. Bên trong thân cây thường rỗng và có các màng trăng bên trong. Tùy vào từng loài tre khác nhau và độ dài của thân tre có thể thay đổi như tre gai thường thấp hơn các loài tre khác. Lá cây tre thường dài, mỏng và dẹt, một đầu của lá tre thường thon nhọn như mũi dao. Lúc mới ra lá tre thường có màu xanh và theo thời gian, lá tre dần chuyển sang màu vàng và rụng đi để những lá mới mọc lên. Lá tre thường mọc theo tán gồm có năm chiếc lá kết lại với nhau thành chùm. Tre cũng là một loài cây có hoa nhưng chắc hẳn ít ai có thể nhìn thấy hoa tre bởi lẽ hoa tre rất ít khi nở, thông thường nó chỉ nở hoa từ 5 đến 60 năm một lần duy nhất vào cuối đời. Với những điểm nêu trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng tre là loài cây rất dễ sống và phát triển, nó có thể tồn tại ở bất cứ điều kiện khắc nghiệt nào của thiên nhiên.

Có thể nói, tre là một trong số những loài cây có vị trí quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần của những người dân nơi làng quê Việt Nam nói riêng và con người Việt Nam nói chung từ xa xưa cho đến tận ngày nay. Trong những năm tháng kháng chiến ác liệt của dân tộc, tre trở thành người bạn đồng hành, cùng chiến đấu và chúng kiến biết bao hi sinh, mất mát cùng những chiến thắng oanh liệt của dân tộc ta. Và có lẽ không quá lời khi Thép Mới trong “Cây tre Việt Nam” đã từng viết: “Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng đại bác, tre giữ làng, giữ n­ước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người ! Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu!” Không chỉ là người bạn đồng hành cùng nhân dân ta trong các cuộc chiến đấu gian khổ, tre còn là loài cây được sử dụng nhiều trong cuộc sống lao động và sinh hoạt hằng ngày của người dân quê Việt Nam. Tre được dùng làm cột kèo trong các ngôi nhà, làm rổ rá, làm giá để dồ, làm chõng, làm máng nước và nhiều vật dụng khác trong sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, tre còn được sử dụng để làm bờ rào, che chắn ruộng, nương, nhà cửa và để làm củi đun nấu trong nhà. Đặc biệt ngày nay, nhờ sự phát triển của khoa học công nghệ cùng bàn tay khéo léo, tỉ mỉ của những người thợ thủ công, tre được dùng để chế tác đồ mĩ nghệ thủ công, làm đũa tre, tăm tre. Nhiều sản phẩm sản xuất từ tre đã được xuất khẩu ra nước ngoài, mang lại hiệu quả cao về kinh tế. Thêm vào đó, tre là một trong số những loài cây được nhắc tới nhiều trong các tác phẩm thơ ca và là biểu tượng xuất sắc cho những vẻ đẹp của người dân Việt Nam – đoàn kết, tình nghĩa, kiên cường, giàu ý chí, nghị lực vươn lên, đúng như nhà thơ Nguyễn Duy trong bài thơ “Tre Việt Nam” từng viết:

Bão bùng thân bọc lấy thân

Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm

Thương nhau tre chẳng ở riêng

Lũy thành từ đó mà nên hỡi người

Chẳng may thân gãy cảnh rơi

Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng

Nòi tre đâu chịu mọc cong

Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường.

Tóm lại, tre là loài cây gần gũi và có vị trí đặc biệt trong lòng của hàng triệu, hàng triệu người con Việt Nam. Dẫu thời gian có trôi đi, đất nước chúng ta ngày càng phát triển và xuất hiện nhiều vật dụng hiện đại cùng với sự xuất hiện của bê tông, cốt thép nhưng tre vẫn mãi còn đó như một chứng nhân cho những năm tháng gian khổ mà hào hùng của dân tộc. Đồng thời, nó mãi mãi là biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp nhất của con người Việt Nam.

Bài mẫu 2: Thuyết minh về cây tre

Thuyết minh về cây tre

Dàn ý

I. Mở bài:

  • Giới thiệu khái quát về mối quan hệ và công dụng thiết thực của cây tre với người dân Việt Nam

II. Thân bài:

1. Nguồn gốc:

  • Cây tre đã có từ lâu đời, gắn bó với người dân Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử.
  • Tre xuất hiện cùng bản làng trên khắp đất Việt, đồng bằng hay miền núi...

2. Các loại tre:

  • Tre có nhiều loại: tre Đồng Nai, nứa, mai, vầu Việt Bắc, trúc Lam Sơn, tre ngút ngàn rừng cả Điện Biên, và cả lũy tre thân thuộc đầu làng...

3. Đặc điểm:

  • Tre không kén chọn đất đai, thời tiết, mọc thành từng lũy, khóm bụi
  • Ban đầu, tre là một mầm măng nhỏ, yếu ớt; rồi trưởng thành theo thời gian và trở thành cây tre đích thực, cứng cáp, dẻo dai
  • Thân tre gầy guộc, hình ống rỗng bên trong, màu xanh lục, đậm dần xuống gốc. Trên thân tre còn có nhiều gai nhọn.
  • Lá tre mỏng manh một màu xanh non mơn mởn với những gân lá song song hình lưỡi mác.
  • Rễ tre thuộc loại rễ chùm, cằn cỗi nhưng bám rất chắc vào đất -> giúp tre không bị đổ trước những cơn gió dữ.
  • Cả đời cây tre chỉ ra hoa một lần và vòng đời của nó sẽ khép lại khi tre "bật ra hoa"...

4. Vai trò và ý nghĩa của cây tre đối với con người Việt Nam:

a. Trong lao động:

  • Tre giúp người trăm công nghìn việc, là cánh tay của người nông dân.
  • Làm công cụ sản xuất: cối xay tre nặng nề quay.

b. Trong sinh hoạt:

  • Bóng tre dang rộng, ôm trọn và tỏa bóng mát cho bản làng, xóm thôn. Trong vòng tay tre, những ngôi nhà trở nên mát mẻ, những chú trâu mới có bóng râm để nhởn nhơ gặm cỏ, người nông dân say nồng giấc ngủ trưa dưới khóm tre xanh...
  • Dưới bóng tre, con người giữ gìn nền văn hóa lâu đời, làm ăn, sinh cơ lập nghiệp.

Tre ăn ở với người đời đời kiếp kiếp:

  • Khi chưa có gạch ngói, bê tông, tre được dùng để làm những ngôi nhà tre vững chãi che nắng che mưa, nuôi sống con người.
  • Tre làm ra những đồ dùng thân thuộc: từ đôi đũa, rổ rá, nong nia cho đến giường, chõng, tủ...
  • Tre gắn với tuổi già: điếu cày tre.
  • Đối với trẻ con ở miền thôn quê thì tre còn có thể làm nên những trò chơi thú vị, bổ ích: đánh chuyền với những que chắt bằng tre, chạy nhảy reo hò theo tiếng sao vi vút trên chiếc diều cũng được làm bằng tre...

c. Trong chiến đấu:

  • Tre là đồng chí...
  • Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù.
  • Tre xung phong... giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh...
  • Tre hi sinh để bảo vệ con người

III- Kết bài:

  • Cây tre trở thành biểu tượng của dân tộc Việt Nam. Trong đời sống hiện đại ngày nay, chúng ta vẫn không thể rời xa tre.

Bài viết

Có lẽ đối với mỗi người Việt Nam, cây tre đã trở thành một phần của cuộc sống. Đặc biệt với mỗi con người ra đi từ làng quê thì hình ảnh những luỹ tre xanh đã ăn sâu vào tiềm thức, do vậy dù có đi đâu đến nơi đâu họ cũng đều nhớ về luỹ tre xanh như nhớ về kỉ niệm gắn bó, thân thương nhất. Và đó chính là niềm tự hào của họ hàng nhà tre chúng tôi.

Cây tre đã có từ lâu đời, gắn bó với người dân Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử. Sự gắn bó, gần gũi của họ hàng nhà tre chúng tôi được thể hiện ở chỗ đi bất cứ nơi đâu, đồng bằng hay miền núi thì bạn cũng đều thấy chúng tôi nghiêng mình trên những con đường hay trong những cánh rừng bát ngát. Họ nhà tre chúng tôi rất đông đúc, nào là: Tre Đồng Nai, nứa, mai, vầu Việt Bắc, trúc Lam Sơn, tre ngút ngàn rừng cả Điện Biên, rồi dang, rồi hóp và cả luỹ tre thân thuộc đầu làng...

Khác với các loài cây khác, từ khi mới bắt đầu sinh ra, chúng tôi đã thể hiện sự ngay thẳng, điều đó các bạn có thể thấy ngay khi nhìn những mầm tre mọc thẳng tắp và dù trong bất cứ môi trường nào chúng tôi cũng vẫn vươn lên để sống mạnh mẽ và xanh tốt. Thân tôi gầy guộc hình ống rỗng bên trong,màu xanh lục, đậm dần xuống gốc. Tôi bền bỉ hiên ngang chẳng dễ gì bị ngã dưới các anh mưa chị gió. Vả lại trên thân tôi có rất nhiều rất nhiều gai nhọn như những chiếc kim giúp tôi tự vệ ,bảo vệ cuộc sống của mình trước những bàn tay ác quỷ dám chặt phá tôi một cách vô lí. Lá của tôi mỏng manh một màu xanh non mơn mởn với những hình gân song song trên lá như những chiếc thuyền nan rung rinh theo những cơn gió thoảng. Rễ tôi thuộc loại rễ chùm, gầy guộc và cằn cỗi nhưng bám rất chắc chắn vào đất giúp giữ mình không bị đổ trước những cơn gió dữ.

Vào những ngày khô hạn nóng nực vô cùng. Cả nhà chúng tôi đung đưa theo gió, dang những cành tre che mát cho đàn con - những đàn con thân yêu. Đến thời kì mưa gió bão bùng,chúng tôi kết thành lũy dày kiên cố ra sức chống gió cản mưa. Chính nhờ đặc điểm này mà chúng tôi sông được ở nhiều vùng khí hậu khác nhau, ở những nơi gần nước hay những nơi xa nước. Vì thế mà câu thơ này ra đời:

"Ở đâu tre cũng xanh tươi

Cho dù đất sỏi đá vôi bạc màu"...

Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, chúng tôi luôn cùng con người đấu tranh cho độc lập, tự do. Chẳng thế mà từ lâu, người Việt đã ví chúng tôi với phẩm chất quật khởi của dân tộc ngàn đời.Những ngày đất nước Việt Nam còn sơ khai, chúng tôi đã giúp ông Gióng diệt lũ giặc Ân bạo tàn, đem lại hạnh phúc cho muôn dân. Rồi trong cuộc chiến chống quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chính chúng tôi đã dìm chết bao tàu chiến của địch khiến cho chúng khiếp sợ phải thua cuộc. Thuở đất nước còn chưa có vũ khí hiện đại như bây giờ, chúng tôi là vũ khí mạnh nhất được dùng để tiêu diệt quân thù. Và trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ, chúng tôi cũng tích cực tham gia kháng chiến bằng cách góp một phần bé nhỏ cơ thể mình để làm ra những cây chông nhọn hoắt sẵn sàng tiêu diệt kẻ thù. Bởi vững vàng trong chiến đấu mà họ mà tre tôi đã được phong danh hiệu anh hùng bất khuất.

Không chỉ trong đánh giặc giữ nước, loài tre nhà chúng tôi còn rất có ích trong cuộc sống hàng ngày. Mỗi khi về thăm một thôn xóm, một bản làng nào bạn cũng sẽ thấy vòng tay của chúng tôi dang rộng, ôm trọn và toả bóng mát cho cho cả dân làng. Trong vòng tay của chúng tôi, những ngôi nhà trở nên mát mẻ, những chú trâu mới có bóng râm để nhởn nhơ gặp cỏ. Những trưa hè, chúng tôi thật hạnh phúc khi được ngắm những khuôn mặt trẻ thơ say nồng giấc ngủ trong tiếng võng kẽo kẹt dưới khóm tre. Hơn thế chúng tôi còn là những vật liệu để bà con dựng nhà, những ngôi nhà được làm từ tre rất mát mẻ và sạch sẽ.

Dưới bóng chúng tôi là cả một nền văn hoá lâu đời đang từng ngày được nâng niu và gìn giữ. Trong đời sống sinh hoạt, chúng tôi còn làm ra những đồ dùng thân thuộc với mỗi người: đó là đôi đũa, là chiếc chõng tre, chiếc giường tre. Đối với mỗi gia đình nông dân, tre tôi là người bạn vô cùng thân thiết. Ngoài ra cây danh, nứa, một trong những họ nhà trẻ còn giúp con người chẻ lạt buộc nhà, nứa giúp cắm sào làm giàn cho bầu bí leo quấn quýt vào nhau. Tre còn gắn với tuổi già, cho họ chiếc ống điếu hút thuốc làm vui.

Đối với trẻ con ở miền thôn quê thì tre còn có thể làm nên những trò chơi thú vị, bổ ích. Dưới những bãi đất rộng, được chúng tôi che hết ánh nắng oi ả của mùa hè, các bạn tha hồ chơi đùa thoả thích. Các bạn nữ còn trò gì thú vị hơn ngồi đánh chuyền với những que chắt bằng tre. Còn các bạn nam lại chạy nhảy reo hò theo tiếng sáo vi vút trên chiếc diều cũng được làm ra từ tre. Những cánh diều đó sẽ đem ước mơ của các bạn về nơi xa.

Tre chúng tôi còn làm nên những tiếng nhạc réo rắt từ những cây sáo tre, sáo trúc, làm vơi đi bao nỗi vất vả nhọc nhằn của người nông dân chân lấm tay bùn.

Ngày nay loài tre của chúng tôi còn vươn xa hơn nữa. Có một giáo sư là Việt Kiều sống ở Pháp đã đưa anh em chúng tôi sang trồng thử trên đất Pháp. Thế mà ở xứ lạ, chúng tôi vẫn sống vững vàng. Ngày sau, dẫu nước mình có hiện đại hơn, loài tre chúng tôi cũng vẫn sẽ ngay thẳng, thuỷ chung và can đảm để tôn lên những đức tính của người hiền - đức tính Việt Nam.

Bài mẫu 3: Thuyết minh về cây tre

Thuyết minh về cây tre

Dàn ý

1. Mở bài:

  • Giới thiệu khái quát và nêu cảm nhận chung về đối tượng thuyết minh: Cây tre.

 

2. Thân bài:

a. Phân loại và những đặc điểm chủ yếu của cây tre

  • Tre là nhóm thực vật đa niên, thân gỗ, là một loại thực vật có hoa, nhưng chỉ nở hoa một lần duy nhất vào lúc cuối đời
  • Tre được chia làm nhiều loại khác nhau như tre gai, tre mạnh tông, tre vàng sọc,... 
    • Tre gai kích thước ốm và thấp hơn, lá cũng mỏng manh hơn nhưng ở mỗi đốt tre mọc ra rất nhiều nhánh gai, sắc, nông dân thường trồng thành hàng rào chống trộm.
    • Tre ngà là loại tre có thân sọc vàng xen lẫn với sọc xanh rất đẹp.
  • Tre xanh lúc còn sống màu xanh mượt, đốt dài và bóng nhẵn, đường kính của thân tre trưởng thành khoảng từ 6 đến 8cm. Cao không đến 10m. 

b. Vai trò, ý nghĩa

Trong cuộc sống:

  • Tre được sử dụng làm cột kèo để dựng nhà, làm đũa, làm máng nước, rổ rá, làm vật dụng nông nghiệp.
  • Tre trồng làm hàng rào.
  • Tre khô làm củi đun.
  • Thân tre chẻ nhỏ để nhóm bếp rất đượm lửa.
  • Lá tre có thể dùng để gói bánh tro vào dịp lễ giết sau bọ.
  • Lạt tre dùng để cột bánh.
  • Thân tre được dùng để làm đũa, đan thành giỏ tre, rổ tre.

Trong chiến đấu:

  •  Thời cách mạng, bộ đội Việt Nam dùng ống tre để đựng nước, nấu cơm. 
  • Trong chiến tranh, tre được sử dụng làm vũ khí rất lợi hại. 

Trong thơ ca: 

  • Cây tre đã đi vào ca dao, thơ văn và ca từ: (Tre Việt Nam – Nguyễn Duy)
  • Câu truyện người anh hùng Thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc ngoại xâm: "Chẻ tre nghe Gióng".

Trong văn hóa ẩm thực: Các món ăn từ măng tre: măng tươi, măng khô, bún măng vịt, măng xào thịt ba rọi, thịt kho măng, măng luộc chấm mắm tôm, măng chua…. 

3. Kết bài: Ngày nay, nhiều người đã bỏ trồng lúa hoặc cây khoai, đón cây tre để có chỗ xây nhà lầu, nhưng nếu một lúc nào đó, nước ta không còn một bóng tre thì đời sống sẽ khó khăn và buồn tẻ biết mấy! Tre đã cống hiến tất cả sự sống cho con người nên ta phải yêu quý và bảo vệ cây tre Việt Nam.

 

Bài viết

Ai đã từng đọc thơ ca Việt Nam hiện đại, hẳn sẽ nhớ những câu lục bát này:

"Tre xanh, xanh tự bao giờ

Tự ngàn xưa đã có bờ tre xanh

Thân gầy guộc lá mong manh

Mà sao lên lũy lên thành tre ơi

Ở đâu tre cũng xanh tươi

Cho dù đất sỏi, đất vôi bạc màu"…

Việt Nam có một hệ thực vật phong phú và đa dạng. Một trong những nguồn tài nguyên thực vật phân bố tương đối rộng và gần gũi với cuộc sống hằng ngày của người dân là cây tre, được mệnh danh là "gỗ của người nghèo".

Tre là nhóm thực vật đa niên, thân gỗ, là một loại thực vật có hoa, nhưng chỉ nở hoa một lần duy nhất vào lúc cuối đời. Hoa tre có mùi hương hơi nồng và có màu vàng nhạt như màu đất. Tre Việt Nam có 7 loại là: tre mạnh tông, tre gai, tre vàng sọc, tre tàu và trúc. Tre xanh lúc còn sống màu xanh mượt, đốt dài và bóng nhẵn, đường kính của thân tre trưởng thành khoảng từ 6 đến 8cm. Cao không đến 10m. Tre gai kích thước ốm và thấp hơn, lá cũng mỏng manh hơn nhưng ở mỗi đốt tre mọc ra rất nhiều nhánh gai, sắc, nông dân thường trồng thành hàng rào chống trộm. Tre ngà là loại tre có thân sọc vàng xen lẫn với sọc xanh rất đẹp. Người ta thường trồng làm cảnh. Tre rừng, mọc hoang trong rừng nên thường không tươi tốt lắm. Ngược lại, lồ ô, tầm vông là loại tre rừng khổng lồ, bề ngang và bề cao của nó gấp hai, ba lần tre xanh. Nó mọc thành từng bụi, từng hàng như rừng trong vùng đất hoang. Người ta đốn lấy gỗ làm nhà tranh, nhà sàn rất chắc chắn. Lồ ô to lớn bao nhiêu thì trúc lại mảnh mai, yếu ớt bấy nhiêu vì thân rỗng và kích thước nhỏ bé. Có hai loại trúc là trúc xanh và trúc vàng. Gần đây nước ta có nhập thêm một ít trúc kiểng gọi là trúc Nhật. Những cây kiểng này có hình dáng đặc biệt, thân màu vàng óng, lá xanh mượt mà rất được mọi người ưa chuộng, trồng làm cảnh và thường bày ở mái hiên, phòng khách.

Tre được sử dụng làm cột kèo để dựng nhà, làm đũa, làm máng nước, rổ rá, làm vật dụng nông nghiệp. Tre trồng làm hàng rào. Tre khô làm củi đun. Thân tre chẻ nhỏ để nhóm bếp rất đượm lửa. Lá tre thường được người miền Nam lấy để gói bánh tro vào dịp lễ giết sau bọ. Lạt tre dùng để cột bánh. Thân tre được dùng để làm đũa. Các thợ thủ công cũng đã tận dụng thân tre để đan thành giỏ tre, rổ tre. Nhân dân ta thường đong dầu, đông nước mắm khi mua bán bằng ống tre. Thời cách mạng, bộ đội Việt Nam dùng ống tre để đựng nước, nấu cơm. Trong quán ăn ở vùng nông thôn, người ta cũng chẻ thân tre để làm ống tăm cho khách sử dụng sau bữa ăn. Trong chiến tranh, tre được sử dụng làm vũ khí rất lợi hại. Lịch sử có kể về Nguyễn Thiện Thuật sử dụng tre để làm vũ khí chống giặc Pháp. Ngày nay, những bộ salon làm bằng may và tre rất được ưa chuộng và trở thành một món hàng xuất khẩu đắt giá. Năm 2009, nông dân An Giang đã trồng tầm vông để lấy nguyên liệu sản xuất, lãi 120 triệu đồng trên một hecta.

Hình ảnh cây tre đã đi vào ca dao, thơ văn và ca từ. Chẳng hạn như:

"Rễ siêng chẳng ngại đất nghèo

Tre bao nhiêu lá bấy nhiêu cần cù

Nghiêng mình trong gió tre đu

Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành…"

(Tre Việt Nam – Nguyễn Duy)

Ông bà ta có nhiều kinh nghiệm trong việc lựa chọn tre tốt:

Trồng tre, trồng trúc, trồng dừa

Muốn nên cơ nghiệp thì chừa lang vân.

Người ta còn sử dụng tre già hay tre non vào những việc khác nhau:

Tháng tám tre non làm nhà

Tháng năm tre già làm lạt

Người thợ mộc còn so sánh độ bền của tre như sau:

Tre già là bà gỗ lim

Ngoài ra, ông bà ta còn nhìn cây tre để nghe ngóng về thời tiết: "Lá tre trôi lộc, mùa rét xộc đến". Và từ đó người xưa còn út ra một quy luật sống của thiên nhiên và con người" "Tre già, măng mọc" tre chẻ ra làm nuộc lạt, trở thành một thứ không thể thiếu ở nhiều chỗ: khi gói bánh, bó rau hoặc lợp nhà. Ca dao cũng nhắc đến nuộc lạt: "Bao nhiêu nuộc lạy nhớ ông bà bấy nhiêu".

Ai từng đọc truyện Thánh Gióng hẳn không quên bụi tre Đằng Ngà khi Thánh Gióng nhổ tre đánh tan giặc ngoại xâm: "Chẻ tre nghe Gióng".

Tre không những đi vào thơ văn mà măng tre còn là một thực phẩm chế biến đa dạng. Các món ăn từ măng tre: măng tươi, măng khô, bún măng vịt, măng xào thịt ba rọi, thịt kho măng, măng luộc chấm mắm tôm, măng chua…. Bún măng vịt là món ăn được nấu với vịt non béo, măng tươi hoặc khô đã được luộc và thay nước nhiều lần, khi ăn người ta cho bún, một ít hành răm và rau sống vào nữa, trở thành một món ăn vừa thơm vừa béo với nước dùng ngọt dịu. Măng tươi đã luộc kĩ, có màu vàng chanh, được xắt miếng xào chung với thịt ba rọi trở thành một món ăn dân dã và rất ngon nếu có thêm một vài lát ớt đỏ thì lại càng hấp dẫn. Thịt heo kho măng cũng là một món ăn "bắt mắt", nấu nhan và để được vài ngày, tiết kiệm được thời gian nấu nướng mà khi chan vào chén cơm nóng thì cũng rất ngon miệng. Măng luộc phải chọn măng trúc non, vào mùa mưa. Sau khi luộc nhiều lần, ta xắt mỏng rồi chấm với mắm tôm hoặc nước mắm ngon ăn kèm với cơm như một món rau. Nó sẽ có một vị vừa ròn vừa mát, kèm theo một vì ngọt dịu của măng tươi. Nói tóm lại thì cây tre luôn là người bạn đồng hành và nó đóng góp tất cả lợi ích của bản thân mình cho con người Việt Nam.

Từ bao đời nay, cây tre là người bạn gắn bó và gần gũi với người dân Việt Nam. Hiện nay cuộc sống ngày càng hiện đại và có nhiều đồ dùng là bằng nhựa, inox xuất hiện. Nhưng người ta vẫn có khuynh hướng quay về với thiên nhiên. Ngày nay, nhiều người đã bỏ trồng lúa hoặc cây khoai, đón cây tre để có chỗ xây nhà lầu, nhưng nếu một lúc nào đó, nước ta không còn một bóng tre thì đời sống sẽ khó khăn và buồn tẻ biết mấy! Tre đã cống hiến tất cả sự sống cho con người nên ta phải yêu quý và bảo vệ cây tre Việt Nam.

Thuyết minh về cây tre
Phần trên, hocthoi.net đã soạn đầy đủ lý thuyết và bài tập của bài học: Văn mẫu lớp 8: Thuyết minh về cây tre . Bài học nằm trong chuyên mục: Văn mẫu lớp 8. Phần trình bày do hanoi tổng hợp và thực hiện giải bài. Nếu có chỗ nào chưa rõ, có phần nào muốn hiểu rộng thêm, bạn đọc vui lòng comment bên dưới. Ban biên tập sẽ giải đáp giúp các bạn trong thời gian sớm nhất.

Bài soạn các môn khác

Bình luận