Danh mục bài soạn

Văn mẫu lớp 8: Phân tích văn bản:" Thuế máu"

Chuyên mục: Văn mẫu lớp 8

Đề bài: Phân tích văn bản:" Thuế máu". Theo đó, hocthoi gửi đến các bạn 3 dàn ý + bài văn mẫu để các bạn có thể tham khảo. Từ đó, giúp các bạn có những bài văn hay nhất cho riêng mình

[toc:ul]

Bài mẫu 1: Phân tích văn bản:" Thuế máu"

" Thuế máu"

Dàn ý

1. Mở bài

  • Tác giả Hồ Chí Minh, tác phẩm "Thuế máu" trích từ "Bản án chế độ thực dân Pháp"
  • Vạch trần thủ đoạn tàn bạo của thực dân Pháp đối với người dân ở các xứ thuộc địa

2. Thân bài

Chiến tranh và người bản xứ:

  • Giọng điệu của thực dân Pháp với người bản xứ
  • Số phận những người dân thuộc địa
  • Chế độ lính tình nguyện:
  • Thủ đoạn xảo trá của thực dân Pháp
  • Phản ứng của người dân thuộc địa
  • Kết quả của sự hy sinh
  • Tội ác của thực dân Pháp
  • Lời tố cáo thẳng thắn

3. Kết bài

* Đánh giá nghệ thuật và nội dung

  • Nghệ thuật: Luận điểm, luận cứ sắc bén, chân thực cùng với hình ảnh giàu giá trị biểu cảm kết hợp với giọng văn mỉa mai sâu sắc
  • Nội dung: Vạch trần và tố cáo tội ác của thực dân Pháp, một nét gạch đầu tiên trong đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn

Bài viết

Đoạn trích "Thuế máu" được trích trong chương I của "Bản án chế độ thực dân Pháp" do Nguyễn Ái Quốc (một trong những tên gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh) viết bằng tiếng Pháp và xuất bản tại Pa-ri năm 1952. "Thuế máu" đã vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa, tố cáo thủ đoạn xảo trá và tội ác tàn bạo của chính quyền thực dân Pháp khi chúng sử dụng người dân thuộc địa làm bia đỡ đạn trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa.

Là một trong những văn bản chính luận tiêu biểu của Nguyễn Ái Quốc, tác phẩm này bao gồm những luận điểm cụ thể, rõ ràng và mạch lạc, đi kèm với những luận cứ sắc sảo và logic. Toàn bộ đoạn trích được chia thành ba luận điểm lớn: "Chiến tranh và người bản xứ", "Chế độ lính tình nguyện", "Kết quả của sự hy sinh", để tìm hiểu tác phẩm này, chúng ta cùng đi phân tích các luận điểm chính của văn bản.

Tại luận điểm "Chiến tranh và người bản xứ", tác giả đã cho thấy rõ giọng điệu tráo trở của thực dân Pháp đối với người dân bản xứ trước và sau khi có chiến tranh. Trước chiến tranh, họ chỉ coi người dân thuộc địa là những tên da đen bẩn thỉu, những tên "An-nam-mít", chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của quan cai trị. Đến khi có chiến tranh, chúng lại đổi giọng, coi dân thuộc địa là "con yêu", "người bạn hiền" của các quan lớn, bé, đã vậy còn phong cho danh hiệu tối cao "chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do". Nhưng thực tế, đó chỉ là cái danh hiệu hão huyền, bởi họ phải bảo vệ nhưng họ không hề được hưởng, ngược lại phải trả cái giá quá chát: Xa rời vợ con, ruộng đồng, phơi thây trên các chiến trường, bỏ xác tại miền hoang vu, bị vắt kiệt sức tại các xưởng thuốc súng độc đến nỗi "khạc ra từng miếng phổi". Sự tráo trở ấy đủ cho thấy bọn thực dân muốn dùng dân bản xứ để làm bia đỡ đạn, chết thay cho chúng trong kế hoạch bành trướng của mình.

Tiếp đến, Nguyễn Ái Quốc vạch trần thủ đoạn của thực dân trong "chế độ lính tình nguyện" đầy mỉa mai, đó là thủ đoạn dùng vũ lực để đàn áp, ép buộc người thuộc địa phải đi lính và tham gia vơ vét của cải cho chúng, chỉ có hai con đường lựa chọn "đi lính tình nguyện, hoặc xì tiền ra". Trước sự tàn bạo của thực dân, người dân thuộc địa chỉ biết tìm mọi cách để trốn thoát "tự làm cho mình nhiễm phải những bệnh nặng nhất... từ vôi sống đến mủ bệnh lậu". Phải khổ đến mức ấy mới rõ người dân thuộc địa không hề "tấp nập đầu quân" và "hiến dâng cánh tay lao động" như chính quyền Đông Dương bố cáo.

Cuối cùng, hàng loạt các câu hỏi nghi vấn mang tính chất khẳng định được tác giả đưa ra đã tố cáo tội ác, sự tàn nhẫn vô nhân đạo của bọn thực dân. Chỉ "trong một việc mà chính quyền thuộc địa đã phạm tới hai tội ác đối với nhân loại", khi chúng đã lợi dụng và lừa bịp xong, chúng thẳng thừng tuyên bố "Bây giờ chúng tôi không cần các anh nữa, cút đi !". Với giọng văn đầy mỉa mai, tác giả đã châm biếm một cách cực độ trước sự bẩn thỉu và bỉ ổi của bọn thực dân "người Pháp lương thiện sẽ đứng về phía chúng tôi lên án bọn cá mập thực dân đang không ngần ngại đầu độc cả một dân tộc để vơ vét cho đầy túi".

Đoạn trích "Thuế máu" của Nguyễn Ái Quốc với những luận điểm, luận cứ sắc bén, chân thực cùng với hình ảnh giàu giá trị biểu cảm kết hợp với giọng văn mỉa mai sâu sắc đã không chỉ lên tiếng vạch trần và tố cáo tội ác của thực dân Pháp mà còn là một nét gạch đầu tiên trong đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn cho các dân tộc bị áp bức nói chung và nhân dân Việt Nam nói riêng, con đường tự đấu tranh và tự giải phóng mình.

Bài mẫu 2: Phân tích văn bản:" Thuế máu"

" Thuế máu"

Dàn ý

1. Mở bài: Ngòi bút của Người ngoài về thiên nhiên, về cách mạng còn hướng tới, quan tâm nhưng số phận bất hạnh, những “người cùng khổ” phải chịu bất công và khổ đau. Một trong những bản án mà Bác đưa ra để tố cáo những tội ác của thực dân, đó chính là “Thế máu” – chương một trong “Bản án chế độ thực dân Pháp”.

2. Thân bài:

Nhan đề đã gợi ra số phận bi thảm cũng như sự tàn độc trong cách bóc lột của thực dân.

Đầu tiên là cái nhìn của tác giả về chiến tranh và người bản xứ:

  • Trước những năm 1914, những người bản xứ trong mắt của những nhà cầm quyền, họ chỉ là giống người ngu dốt và hạ đẳng.
  • Khi chiến tranh nổ ra, họ lập tức trở thành “những đứa con yêu, những người bạn hiền” ,“chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do” của các quan cai trị, phụ mẫu nhân hậu. 

=> Giọng điệu châm biếm, mỉa mai bằng cách nhại lại những mĩ từ ấy đã vạch trần thủ đoạn lừa bịp, xảo trá, đáng ghê tởm trong quá trình khai hóa văn minh của chủ nghĩa thực dân. Việc sử dụng những con số cụ thể và biện pháp nói giảm, nói tránh khi nói đến sự mất mát làm nỗi đau ngày càng tăng lên.

Bộ mặt xảo trá còn thể hiện ở các thủ đoạn bắt lính:

  • Khi nói với nhau, chúng không ngần ngại gọi những người bản xứ là những vật liệu biết nói- không được coi như một con người
  • Các quan lại địa phương thì không lo gì không đủ số lượng nên nghĩ cách tóm lấy những người khỏe mạnh, nghèo khổ.
  • Chúng nhắm đến con cái nhà giàu: hoặc đi lính, hoặc xì tiền ra giúp quan lại địa phương làm giàu.
  • Những người nghèo: Họ không chỉ phải chịu sưu cao thuế nặng, mà còn phải chịu hai tần áp bức: phong kiến và thực dân.
  • Để tăng sức thuyết phục, tác giả đã đưa ra những cảnh lính bị bắt, bị áp giải để cho thấy bộ mặt của chủ nghĩa thực dân và cái gọi là “lính tình nguyện” trước dư luận thế giới.

Khi chiến tranh kết thúc, chính quyền thực dân đã phạm đến hai tội ác: vừa bóc lột xương máu của người dân thuộc địa, vừa cấp môn bài thẻ thuốc phiện cho thương binh và vợ tử sĩ để tiếp tục đầu độc cả một dân tộc và biến họ thành nạn nhân của cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn”. 

3. Kết bài: “Thuế máu” với ngòi bút lập luận sắc sảo cùng với ngôn ngữ trào phúng, mỉa mai đã bày tỏ lòng cảm thông, thương xót của tác giả cho số phận những người bản xứ, lên tiếng bênh vực họ. Đồng thời là tiếng nói đanh thép kết tội, lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân, vạch ra con đường đấu tranh cho các nước thuộc địa

Bài viết

Hồ Chí Minh- lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, cũng là viên ngọc trong văn học Việt Nam hiện đại. Ngòi bút của Người ngoài về thiên nhiên, về cách mạng còn hướng tới, quan tâm nhưng số phận bất hạnh, những “người cùng khổ” phải chịu bất công và khổ đau. Một trong những bản án mà Bác đưa ra để tố cáo những tội ác của thực dân, đó chính là “Thế máu” – chương một trong “Bản án chế độ thực dân Pháp”.

Thuế là nghĩa vụ của mỗi công dân đóng góp cho đất nước. Nhưng có những loại thuế lại nằm ngoài nghĩa vụ đó. Thứ thuế của người chết khiến cho người sống phải chết đi sống lại trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố hay những phóng sự liên quan. Khi cần tiền, các quan cai trị không ngần ngại vẽ ra đủ thứ thuế vô lí. Khi cần củng cố địa vị, những thứ thuế kia lại được đặt ra, không phải trả bằng tiền bạc, công sức nữa và bằng cả máu và nước mắt, bằng nỗi đau của con người. Nhan đề đã gợi ra số phận bi thảm cũng như sự tàn độc trong cách bóc lột của thực dân.

Bài viết của Hồ Chí Minh được chia thành ba phần. Đầu tiên là cái nhìn của tác giả về chiến tranh và người bản xứ. Trước những năm 1914, những người bản xứ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tân “An- nam- mít”. Trong mắt của những nhà cầm quyền, họ chỉ là giống người ngu dốt và hạ đẳng. Nhưng khi chiến tranh nổ ra, họ lập tức trở thành “những đứa con yêu, những người bạn hiền” của các quan cai trị, phụ mẫu nhân hậu. Họ được khoác lên cổ những danh hiệu cao quý và nhân hậu: “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”. Để trả giá cho cái danh dự đột ngột và hão huyền ấy, những người bản xứ phải đánh đổi bằng cái chết ở nơi đáy biển, vùng Ban- căng hoang vu, bên bờ sông Mác- nơ hay bãi lầy miền Săm-pa-nơ. Những kẻ không phải ra trận thì bị đầu độc trong những xưởng vũ khí giết người. Đó là những tội ác thực sự phía sau những danh từ mĩ miều kia. Giọng điệu châm biếm, mỉa mai bằng cách nhại lại những mĩ từ ấy đã vạch trần thủ đoạn lừa bịp, xảo trá, đáng ghê tởm trong quá trình khai hóa văn minh của chủ nghĩa thực dân. Việc sử dụng những con số cụ thể và biện pháp nói giảm, nói tránh khi nói đến sự mất mát làm nỗi đau ngày càng tăng lên.

Bộ mặt xảo trá ấy còn thể hiện ở các thủ đoạn bắt lính. Lính tình nguyện là cách nói mà chính quyền thực dân dùng để lừa bịp dư luận tiến bộ. Khi nói với nhau, chúng không ngần ngại gọi những người bản xứ là những vật liệu biết nói- không được coi như một con người. Tác giả không ngần ngại vạch ra sự thật: không có cuộc vận động tuyên truyền nào gọi là tình nguyện cả. Các viên công sứ chỉ cần ra lệnh cho quan lại dưới quyền ngày nộp và số lượng nộp. Các quan lại địa phương thì không lo gì không đủ số lượng. Đây còn là cơ hội tuyệt vời để chúng kiếm trác trên xương máu của đồng bào mình. Thoạt tiên, chúng tóm lấy những người khỏe mạnh, nghèo khổ. Điều này có vô số cái lợi bởi người nghèo làm gì có tiền mà chạy chọt, đành chấp nhận đi lính. Mà người nghèo trong xã hội ấy có vô vàn. Các quan lại có dịp để tâng công nên ai cũng trở nên mẫn cán. Lo xong việc quân số, tiếp đến việc kiếm trác. Chúng nhắm đến con cái nhà giàu: hoặc đi lính, hoặc xì tiền ra. Chẳng ai muốn con mình đi vào cõi chết. Thế là chế độ đi lính không chỉ đỡ cho mẫu quốc bao nhiêu xương máu mà còn giúp quan lại địa phương làm giàu. Người chịu thua thiệt duy nhất là đám dân đen. Họ không chỉ phải chịu sưu cao thuế nặng, mà còn phải chịu hai tần áp bức: phong kiến và thực dân.

Ai cũng biết những lời lẽ bịp bợm là giả tạo. Những người dân bản xứ đã tìm mọi cách để trốn lính: tự làm cho mình nhiễm bệnh nguy hiểm. Vậy mà với giọng điệu đểu cáng, chúng không ngần ngại đưa ra những lời: “Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương”. Để tăng sức thuyết phục, tác giả đã đưa ra những cảnh lính bị bắt, bị áp giải để cho thấy bộ mặt của chủ nghĩa thực dân và cái gọi là “lính tình nguyện” trước dư luận thế giới.

Kết quả của sự hi sinh ấy là gì? Khi những “công cụ biết nói” không còn cần thiết thì lập tức họ lại trở về giống người bẩn thỉu. Sau hi họ đã cống hiến xương máu của mình bảo vệ cho mẫu quốc thì lại bị chính mẫu quốc cướp nốt chút tài sản cuối cùng và bị đối xử tàn tệ. Khi trở về còn được chào đón bằng một bài diễn văn yêu nước- một thái độ xảo trá, trơ trẽn của chính quyền thực dân. Khi chiến tranh kết thúc, chính quyền thực dân đã phạm đến hai tội ác: vừa bóc lột xương máu của người dân thuộc địa, vừa cấp môn bài thẻ thuốc phiện cho thương binh và vợ tử sĩ để tiếp tục đầu độc cả một dân tộc và biến họ thành nạn nhân của cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn”. Đó cũng chính là bộ mặt nham hiểm, bỉ ổi của chủ nghĩa thực dân.

“Thuế máu” với ngòi bút lập luận sắc sảo cùng với ngôn ngữ trào phúng, mỉa mai đã bày tỏ lòng cảm thông, thương xót của tác giả cho số phận những người bản xứ, lên tiếng bênh vực họ. Đồng thời là tiếng nói đanh thép kết tội, lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân, vạch ra con đường đấu tranh cho các nước thuộc địa: đoàn kết đấu tranh để lật đổ chế độ thực dân. Những dòng “Thuế máu” không dài mà đầy sức ám ảnh. Những giọt lệ của bạn đọc cùng chảy xuống bên những giọt máu đã rơi.

Bài mẫu 3: Phân tích văn bản:" Thuế máu"

" Thuế máu"

Dàn ý

A. Mở bài: 

  • “Thuế máu” là văn bản nghị luận sắc bén, nổi tiếng của Nguyễn Ái Quốc với nghệ thuật trào phúng sắc sảo, vạch trần sự ác độc, thủ đoạn tàn bạo của thực dân Pháp với người dân thuộc địa trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 1.

B. Thân bài:

Luận điểm 1: Chiến tranh và người bản xứ

* Giọng điệu của bọn thực dân

  • Trước chiến tranh thế giới lần 1, chúng cay nghiệt, khinh thường người dân thuộc địa bằng những cái tên “bọn da đen bẩn thỉu”, hay bọn “An-nam-mít”, bọn chỉ biết “kéo xe tay và ăn đòn”.
  • Sau khi chiến tranh xảy ra, bọn thực dân bất ngờ thay đổi chóng mặt, chúng gọi người dân thuộc địa là “con yêu”, là “bạn hiền”, ngợi ca và phong cho họ là những “chiến sĩ tự do bảo vệ công lí”.
  • Tại sao có sự thay đổi như vậy? Vì sau khi chiến tranh xảy ra, bọn thực dân muốn dùng dân thuộc địa để giúp chúng bành trướng và chết thay cho chúng

* Số phận của người dân thuộc địa

  • Trên chiến trường tàn khốc: họ buộc phải xa gia đình, xa quê hương, người phơi thây ngoài chiến trường, kẻ chết khi vượt biển, bỏ xác tại nơi hoang vu, bị tàn sát không thương tiếc…
  • - hậu phương, họ bị bọn thực dân bóc lột, vắt kiệt sức trong các xưởng thuốc súng, bị nhiễm khí độc đến nỗi “khạc ra từng miếng phổi”.

⇒ Số phận thảm thương, bế tắc của những người dân thuộc địa.

Luận điểm 2: Chế độ lính tình nguyện

* Các thủ đoạn, mánh khóe của bọn thực dân

Các thủ đoạn vũ lực, mánh khóe vô lí để bắt ép người dân Đông Dương đi lính và vơ vét của cải của họ:

  • Chúng mở cuộc lùng ráp, vây bắt và cưỡng chế bằng vũ lực để ép người dân đi lính
  • Chúng dùng mánh khóe trấn lột của cải của người dân bằng luận điệu: muốn không đi lính thì xì tiền ra.
  • Khi bị bắt, chúng trói, xích, đánh đập như súc vật, sẵn sàng đàn áp dã man nếu họ chống đối.

⇒ Vô nhân đạo, không từ một thủ đoạn tàn ác, coi mạng người như cỏ rác.

  • Giọng điệu xảo trá, đáng khinh khi chúng nói “các bạn đã tấp nập đầu quân…; không ngần ngại rời bỏ quê hương…”.

* Phản ứng của người dân

  • Tìm mọi cách để trốn thoát khỏi vòng vây của bọn thực dân
  • Sẵn sàng làm cho mình nhiễm những căn bệnh nặng nhất để không phải đi nhưng cuối cùng vẫn bị chúng bóc lột, vơ vét không từ thủ đoạn.

⇒ Họ không hề tình nguyện như lời phủ toàn quyền Đông Dương đã công bố trước toàn thế giới.

Luận điểm 3: Kết quả của sự hi sinh

  • Một loạt các câu nghi vấn nhưng không hề có mục đích hỏi mà tác giả đang muốn khẳng định, vạch trần bộ mặt tráo trở, tàn nhẫn, xảo trá, vô nhân đạo, bỉ ổi của bọn thực dân Pháp đối với những người dân Việt Nam
    • Chúng thẳng thường tuyên bố: “Các anh đã bảo về Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ chúng tôi không cần các anh nữa, cút đi.”
    • Chúng thậm chí còn ra sức vơ vét , gieo rắc vào đất nước ta những tệ nạn chết người.

⇒ Lời tố cáo thẳng thắn, quyết liệt của tác giả trước những tội ác của bọn thực dân, thái độ mỉa mai, châm biếm đến cực độ trước sựu gian xảo, bỉ ổi của chúng.

Luận điểm 4: Nghệ thuật

  • Văn bản nghị luận với những luận điểm, luận cứ sắc sảo, chân thực, logic
  • Sử dụng những hình ảnh giàu giá trị biểu cảm
  • Giọng điệu khi mỉa mai châm biếm, khi chua xót uất hận.

C. Kết bài:

  • Văn bản “Thuế máu” nói riêng và “Bản án chế độ thực dân Pháp” nói chung chính là nhát dao sắc bén của Nguyễn Ái Quốc, đâm thẳng vào “tim đen” của bọn thực dân và sự đau khổ của người dân các nước thuộc địa.

Bài viết

Nguyễn Ái Quốc là một vị lãnh tụ vĩ đại một người cha già của dân tộc. Người là một nhà cách mạng sáng lập ra đảng cộng sản Việt Nam, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ cho dân tộc Việt Nam. Là một người tài hoa , có tài văn chương, Nguyễn Ái Quốc đã dùng ngòi bút của mình, dùng văn chương để làm vũ khí chiến đấu. Nhưng tác phẩm đó đã để lại ấn tương sâu sắc trong lòng người đọc và đánh những đon mạnh vào bọn đế quốc tay sai. Trong số những tác phẩm đó được bạn bè thế giới biết đến nhiều phải kể đến tác phẩm "Thuế máu". Tác phẩm được người viết khi đang hoạt đông cách mạng tại Pháp và là một đòn chí mạng đối với bọn đế quốc thực dân. Tác phẩm đã vạch rõ bộ mặt thật sự của quan cai trị Pháp đối với người bản xứ, chính quyền thuộc địa đã biến người dân thuộc địa thành vật hi sinh để phục vụ lợi ích trong các cuộc chiến tranh tàn khốc.

Tên tác phẩm là "Thuế máu" tạo lên cảm giác của các cuộc chiến tranh các cuộc tàn sát đẫm máu. Trong tác phẩm này đây chính là máu của những người dân thuộc địa bị bọn đế quốc thực dân, bị bọn tay sai áp bức bóc lột đến tận sương tủy. Đồng thời nhan đề tác phẩm cũng thể hiện thái độ tức giận, căm phẫn của tác giả khi chứng kiến dân tộc mình bị đối xử tàn nhẫn.

Trong đoạn đầu của tác phẩm tác giả đã so sánh thái độ của quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa tại hai thời điểm trước khi có chiến tranh và sau khi chiến tranh xảy ra. Trước khi chiến tranh xảy thì bị bị coi là giống người hạ đẳng , những người da đen bẩn thỉu đây là những cái tên chúng gọi người Việt Nam chúng ta một cách khinh miệt coi thường khi đó họ chỉ là những nô lệ cho tầng lớp thống trị bấy giờ. Bọn người cai trị luôn cho rằng tộc người da trắng là tộc người cao quý vì vậy chúng luôn cho rằng những tộc người khác là thấp hèn và luôn tạo ra một khoảng cách để phân biệt đối xử. Người dân thuộc địa "giỏi lắm cũng chỉ biết kéo xe và ăn đòn của quân cai trị nhà ta". Giọng nói đầy mỉa mai cho thấy thái độ khinh bỉ coi dân ta như súc vậy của bọn thực dân Pháp. Khi chiến tranh "vui tươi" xảy ra, chữ vui tươi được tác giả sử dụng để châm biếm cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất các nước đế quốc tranh giành quyền lợi. Khi đó số phận của người dân thuộc địa được thay đổi đến không ngờ. Họ được đề cao trọng vọng và được các quan phụ mẫu, quan toàn quyền lớn bè coi là "con yên" "bạn hiền", thậm chí còn được đề bạt lân chức danh "chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do". Đối với chức danh đó đánh nhẽ ra họ phải được nâng như nâng trứng hứng như hứng hoa, nhưng thực chất cuộc sống của họ không hề được nâng cao mà lạ ngược lại. Như vậy đối với họ chức danh ấy vốn cũng chỉ là hữu danh vô thực không có một chút đặc quyền gì hết Với gọng điệu mỉa mai khi chỉ ra sự tương phản đã châm biếm sự thâm độc giả dối của chế độ thực dân.

Dưới ách áp bức đó của bọn thực dân, số phận người dân thuộc địa rất bi thảm và đã được nhà văn miêu tả hết sức cụ thể bằng ngòi bút tài hoa của mình. Họ không được hưởng tí nào về quyền lợi đã thế họ còn phải đột ngột xa lìa vợ con, quê hương, phải làm việc cật lực trong những kho thuốc súng ghê tởm khạc ra từng tiếng phổi, họ phơi thây trên các chiến trương châu Âu, xuống tận đáy biển bảo vệ tổ quốc của loài thủy quái, bỏ xác ở những vùng miền hoang vu ở Ban-căng, lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế. Kết quả là tám vạn người không bao giờ thấy mặt trời trên quê hương mình nữa. Nghe đến đấy la tự hỏi tại sao , bọn thực dân rốt cuộc có quyền gì mà lại có thể quyết đinh sống chết của hàng vạn người dân vô tội như thế?Những người dân bản xứ rốt cuộc cũng chỉ là vật hi sinh cho bạn cai trị thực dân. Đó chính là kiếp khổ đau của thân phận những người nô lệ. Tác giả đã vạch trần bộ mặt bỉ ổi của chủ nghĩa thực dân phản ánh số phận thảm thương của người dân thuộc địa.

Sau đó tác giả đã chỉ ra thủ đoạn mánh khóe của những bọn thực dân. Bọn thực dân tiến hành những cuộc lùng soát lớn trên toàn cõi đông dương và đủ các ngón xoay sở tinh vi nhất để đòi tiền. Chúng tìm đến những người khỏe mạnh những người này có thân cô thế cô chỉ chịu chết chứ không kêu cứu vào đâu được. Còn đối với những con cái nhà giàu thì họ ép cho một là đi lính hai là xì tiền ra. Đối với những người bị bắt đi lính thì một là họ bỏ trốn hai là tự làm cho mình nhiễm phải những căn bệnh nặng để không phải đi bởi đi lính đối với họ còn đáng sợ hơn cả bệnh tật. Khi đó để giả thích cho vấn đè này thì giọng điệu của chính phủ toàn quyền cũng rất bịp bợm. Chúng dùng sự hứa hẹn để lừa phỉnh người lính như ban phẩm hàm cho người sống sót truy tặng cho người hi sinh hay dùng những lời lẽ tán dương như "các bạn đã tấp nập đầu quân đã không ngần ngại rời bỏ quê hương". Tất cả chỉ là những lời nói bịp bợm lừa phỉnh khi mà thực tế chúng xích trói bắt nhốt và đương nhiên bạo động nổ ra. Đây chính là những lời lừa dối mị dân. Tác giả mỉa mai những luận điện chua chát ấy bằng những câu hỏi tu từ đầy sức thuyết phục "Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính như thế tại sao có cảnh tốp thì bị xích tay điều về tỉnh tốp thì trước khi bị đưa xuống tàu bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn có cả lính gác canh lưỡi lê tuốt trần đạn lên nòng sẵn. Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên , những vụ bạo động ở Sài Gòn ở Biên Hòa và nhiều nơi khác nữa phải chăng là những cuộc biểu tình của sốt sắng đầu quân và không ngần ngại". Bác đã lột trần bản chất tham lam và bạo tàn của chúng đối với người dân thuộc địa. Lập luận của Bác khiến cho toàn quyền Đông Dương cứng họng không thể trả lời.

Kết quả sự hi sinh của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh là vô cùng đau thương được nhà văn miêu tả bằng những lời lẽ đầy sắc cạnh "Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi thì những lời tuyên bố tình tứ của ngài cầm quyền nhà ta bỗng dưng im lặng như cao phép lạ và cả người Nê-gô-rô lẫn người An-nam-mit mặc nhiên trở lại giống người bẩn thỉu" hay để ghi nhớ công lao của người An nam chẳng phải người ta đã lột hết quần áo của họ từ chiếc đồng hồ , bộ đồ mới toanh mà họ bỏ tiền túi mua hay là những vật kỉ niệm đủ thứ. . trước khi đưa họ đến Mác –xây xuống tàu về nước đó sao?Chẳng phải người ta đã giao cho họ bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập họ vô cớ đó sao?Chẳng phải người ta đã cho họ ăn như cho lợn ăn và xếp họ như xép lợn dưới hầm tàu ẩm ướt không giương nằm không ánh sáng thiếu không khí đó sao?Về đến xứ sở chẳng phải họ đã được một quan cai trị biết ơn đón chào nông nhiệt bằng một bài diễn văn yêu nước "Các anh đã bảo vệ tổ quốc. Bây giờ chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi!đó sao?". Như vây với lập luận phản bác mâu thuẫn trào phúng câu hỏi tu từ điệp từ đã cho thấy những hành động vô nhân đạo tráo trở tàn nhẫn của bọn tay sai đối với nhân dân ta. Chính quyền thực dân đối xử với những người lính trở về như đối xử với súc vật với người có tội chứ không phải là đối xử với người có công đổ máu cho họ. Cách đối xử ấy là tráo trở đê hèn của một nước luôn vỗ ngực nói mình là mẫu quốc.

Với tư liệu phong phú xác thực giàu hình ảnh giá trị biểu cảm giọng điệu đanh thép ngòi bút trào phúng sắc sảo châm biếm mỉa mai làm tác phẩm như một lời tố cáo đanh thép nhất đối với chính quyền Pháp thuộc là đòn tấn công quyết liệt đối với chủ nghĩa thực dân. Đoạn trích cũng cho người đọc thấy được bộ mặt tàn ác nhẫn tâm cuồng thú của bọn thực dân khi dùng những người dân thuộc địa vô tội làm vật hi sinh cho chúng đồng thời cũng nói lên thân phận thảm hại nô lệ của những người dân An Nam. Bên cạnh đó tác phẩm cũng cho ta thấy tấm lòng thương cảm của Bác đối với thân phận những người dân và cũng khẳng định tài hoa khéo léo trong việc hành văn của Bác.

Phân tích văn bản:" Thuế máu"
Phần trên, hocthoi.net đã soạn đầy đủ lý thuyết và bài tập của bài học: Văn mẫu lớp 8: Phân tích văn bản:" Thuế máu" . Bài học nằm trong chuyên mục: Văn mẫu lớp 8. Phần trình bày do hanoi tổng hợp và thực hiện giải bài. Nếu có chỗ nào chưa rõ, có phần nào muốn hiểu rộng thêm, bạn đọc vui lòng comment bên dưới. Ban biên tập sẽ giải đáp giúp các bạn trong thời gian sớm nhất.

Bài soạn các môn khác

Bình luận