Danh mục bài soạn

Văn mẫu lớp 8: Giải thích bài ca dao: " Cày đồng đang buổi ban trưa.......Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần"

Chuyên mục: Văn mẫu lớp 8

Đề bài: Giải thích bài ca dao: " Cày đồng đang buổi ban trưa.......Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần". Theo đó, hocthoi gửi đến các bạn 3 dàn ý + bài văn mẫu để các bạn có thể tham khảo. Từ đó, giúp các bạn có những bài văn hay nhất cho riêng mình

[toc:ul]

Bài mẫu 1: Giải thích bài ca dao: " Cày đồng đang buổi ban trưa.......Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần"

Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thành thót như mưa ruộng cày

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dèo thơm một hạt đắng cay muôn phần

" Cày đồng đang buổi ban trưa.......Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần"

Dàn ý

1. Mở bài: Trong kho tàng văn học Việt Nam, ca dao tục ngữ chiếm một vị trí không hề nhỏ, nó là một thể loại rất đặc trưng của dân tộc, xuất hiện lâu đời nên là một phần trong đời sống dân ta xưa, mang nội dung phản ánh chân thực, thơ bay bổng , không gò bó trong quy tắc

2. Thân bài:

  • Bài ca dao tương đối ngắn gọn, xúc tích chỉ có vỏn vẹn bốn dòng. Đây là những nỗi vất vả của người dân nước ta, quanh năm gắn bó với ruộng đồng, một nắng hai sương để làm ra hạt gạo.
  • Bài ca dao này cũng giúp ta nhận thức luôn phải biết quý trọng, biết ơn, người lao động vất vả.
  • Thấy được những thứ mang tính giúp sức cho người nông dân đỡ cực nhọc khi phải làm việc trên đất ruộng khó khăn,
  • Họ đều đặn với công việc của mình từ sáng sớm tinh mơ gà mới gáy, đến trưa nắng lên đỉnh đầu mới dắt trâu lững thững về. Còn đối với những ngày vào mùa, họ còn phải làm bao nhiêu công việc như làm đất, gieo mạ … đến quên cả giờ giấc, lao động thay nhau quần quật trên đồng đến tối muộn.
  • Rất nhiều câu thơ, câu văn trong nhiều tác phẩm điển hình đã cùng cảm thông với vất vả cho người dân lao động: Hạt gạo làng ta
  • Nhắc nhở chúng ta phải quý trọng hạt gạo
  • Đạo lý “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” cũng được đề cập đến, nó luôn đúng, nó là cội nguồn đạo lý tuyệt vời của dân tộc. Dù ở đâu, làm gì lòng kính trọng, nhớ ơn cũng là sự cần thiết trong mỗi nhân cách của con người, làm xã hội đi lên.

  • Những biểu hiện của nó là sự trân trọng và biết ơn sâu sắc, biết bảo vệ, phát huy giá trị cao quý của đạo lý này. Những hành động đi ngược lại với nó cần được lên án và phê phán, toàn xã hội chung tay nâng cao trách nhiệm giáo dục

  • Để cho nó mãi ngời sáng, luôn luôn là suối nguồn đạo đức chảy mãi đến thế hệ sau.

3. Kết bài: Ngày nay, những câu chuyện về truyền thống uống nước nhớ nguồn vẫn đang và đã và sẽ được kể mãi trong cộng đồng, và đang có rất nhiều những tấm gương xung quanh ta, nó vẫn diễn ra hàng ngày, dễ tìm, dễ thấy. Những biểu hiện của nó là sự trân trọng và biết ơn sâu sắc, biết bảo vệ, phát huy giá trị cao quý của đạo lý này.

Bài viết

Trong kho tàng văn học Việt Nam, ca dao tục ngữ chiếm một vị trí không hề nhỏ, nó là một thể loại rất đặc trưng của dân tộc, xuất hiện lâu đời nên là một phần trong đời sống dân ta xưa, mang nội dung phản ánh chân thực, thơ bay bổng , không gò bó trong quy tắc. Có những bài ca dao đã trở nên bất hủ, nó là cái nôi nuôi nấng cho ta những ngày thơ bé từ giọng đầm ấm của người bà, người mẹ, nó thấm vào mỗi chúng ta đến khi trưởng thành, và dù có đi đâu về đâu vẫn nhớ mãi về mảnh đất này. Trong đó hẳn chẳng ai quên được những câu ca dao sau :

Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.

Bài ca dao tương đối ngắn gọn, xúc tích chỉ có vỏn vẹn bốn dòng. Đây là những nỗi vất vả của người dân nước ta, quanh năm gắn bó với ruộng đồng, một nắng hai sương để làm ra hạt gạo. Vì vậy, bài ca dao này cũng giúp ta nhận thức luôn phải biết quý trọng, biết ơn, người lao động vất vả.

Trong hai câu đầu tiên, miêu tả bức tranh chân thực sự cần cù lao động, sự cực nhọc của người dân trên những thửa ruộng dài xa tít tắp, rộng là đặc trưng điển hình của một nước có nền nông nghiệp lúa nước phát triển lâu đời:

Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày

Thấy được những thứ mang tính giúp sức cho người nông dân đỡ cực nhọc khi phải làm việc trên đất ruộng khó khăn, nhưng tác giả khéo léo tô đậm lên hình ảnh con người giữa không gian bao la, và trên từng thửa ruộng khô cằn, mở ra trước mắt ta là con trâu lầm lùi bước từng bước nặng nề, những vết chân in hằn rõ trên mặt đất, người nông dân đi sau tay bám chắc cày, gò lưng vất vả, kết hợp nhịp nhàng với vật để ghi sâu lưỡi cày xuống đất, tạo ra những rãnh đất rõ ràng. Họ đều đặn với công việc của mình từ sáng sớm tinh mơ gà mới gáy, đến trưa nắng lên đỉnh đầu mới dắt trâu lững thững về. Còn đối với những ngày vào mùa, họ còn phải làm bao nhiêu công việc như làm đất, gieo mạ … đến quên cả giờ giấc, lao động thay nhau quần quật trên đồng đến tối muộn.

Thiên nhiên nước ta tuy đẹp nhưng thời tiết nước ta vốn khắc nghiệt biểu hiện theo các ngày, các tháng, các năm vừa qua lúc mưa dầm, lũ ngập, lúc nắng gắt vậy nên người lao động làm công việc ngoài trời đã khổ, người nông dân làm việc trên đồng còn khổ hơn gấp nhiều lần. Rất nhiều câu thơ, câu văn trong nhiều tác phẩm điển hình đã cùng cảm thông với vất vả cho người dân lao động:

Hạt gạo làng ta

Có bão tháng bảy có mưa tháng ba

Giọt mồ hôi sa những trưa tháng sáu

Nước như ai nấu chết cả cá cờ

Cua ngoi lên bờ mẹ em xuống cấy…”

(Hạt gạo làng ta - Trần Đăng Khoa)

Miêu tả những câu thơ này càng làm khắc sâu sự cố gắng, cực nhọc của người làm nông nghiệp. Thời điểm trưa có lẽ là lúc chân thực nhất để lột tả nỗi vất vả này. Tác giả sử dụng biện pháp so sánh trong câu thơ thứ hai, và từ tượng thanh “thánh thót” để chỉ sự rơi nhiều, nhanh như mưa vậy. Mồ hôi họ ra làm bạc hẳn cái màu áo nâu sần, rồi lặng lẽ lăn trên má thành từng dòng chảy xuống đất, giữa cái nắng mùa hè chói chang, yên ả giữa cánh đồng bao la ta nghe được tiếng giọt mồ hôi rơi. Nên đây có thể được nói đến như là việc khó khăn, nặng nhọc nhất của nhà nông. Qua câu thơ này có thể nhanh hiểu tác giả đã vận dụng biện pháp cường điệu nhưng cũng lại nhanh chóng hiểu ra đây là cách thông minh để nhằm gửi gắm vào đó sự xót xa, sự đồng cảm, trân trọng từ đáy lòng. Có lẽ để được bát gạo trắng trong kia đã phải đổi bằng vô số giọt mồ hôi.

Ai ơi bưng bát cơm đầy,

Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.

Đây là lời nhắc nhở trọn vẹn, tưởng chừng như dễ hiểu, đơn giản nhưng đầy ẩn ý sâu sắc. Và ta cũng hiểu Hiếm ai khi cầm chén cơm trên tay lại nhớ đến người làm ra nó vất vả, cực nhọc ra sao?. Rồi có khi trời thiên tai ập đến, người ta mang trong mình bao nhiêu nỗi lo, không chỉ lo về tính mạng con người, mà còn lo về cái miếng cơm manh áo của gia đình họ đang còn ở trên cánh đồng kia, họ gian lao, cần cù suốt cả năm trời, để đánh đổi lại là sự mất trắng, rồi cả khi mưa lớn, hạn hán mất mùa họ cũng chẳng quản hi sinh thân mình làm mọi biện pháp giúp cây lúa chống hạn, chống úng… ai thấu được nỗi khổ này?. Nên có thể nói được vụ mùa cũng phải phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết. Khi bưng chén cơm thơm dẻo, đầy kia chính là lúc thích hợp để nói lên lời này. Để khắc sâu trong tâm khảm chúng ta về cái nỗi cực khổ của người nông dân làm ra hạt gạo khó vô cùng, có khi phải đánh đổi bằng hàng bao nhiêu mồ hôi, thậm chí nước mắt đắng cay.

Bài ca dao nó không xa rời với cuộc sống mà nó gắn bó ngay từ cái nhỏ nhất, mang trong mình đầy bài học được đúc kết cẩn thận. Bài ca dao này nhắc chúng ta phải biết sống có tình người, luôn sống cho trọn ân nghĩa. Biết cảm thông, trân trọng, yêu quý người lao động vất vả làm ra những thứ ý nghĩa cho xã hội. Được thành quả phải luôn biết nhớ người làm ra nó. Đừng sống như những kẻ vô ơn, không biết nhớ biết quý trọng họ.

Đạo lý “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” cũng được đề cập đến, nó luôn đúng, nó là cội nguồn đạo lý tuyệt vời của dân tộc. Dù ở đâu, làm gì lòng kính trọng, nhớ ơn cũng là sự cần thiết trong mỗi nhân cách của con người, làm xã hội đi lên.

Ngày nay, những câu chuyện về truyền thống uống nước nhớ nguồn vẫn đang và đã và sẽ được kể mãi trong cộng đồng, và đang có rất nhiều những tấm gương xung quanh ta, nó vẫn diễn ra hàng ngày, dễ tìm, dễ thấy. Những biểu hiện của nó là sự trân trọng và biết ơn sâu sắc, biết bảo vệ, phát huy giá trị cao quý của đạo lý này. Những hành động đi ngược lại với nó cần được lên án và phê phán, toàn xã hội chung tay nâng cao trách nhiệm giáo dục. Để cho nó mãi ngời sáng, luôn luôn là suối nguồn đạo đức chảy mãi đến thế hệ sau.

Bài mẫu 2: Giải thích bài ca dao: " Cày đồng đang buổi ban trưa.......Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần"

Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thành thót như mưa ruộng cày

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dèo thơm một hạt đắng cay muôn phần

" Cày đồng đang buổi ban trưa.......Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần"

Dàn ý

1. Mở bài: 

  • Ca dao là khúc hát tâm tình của người dân quê Việt Nam lưu truyền qua năm tháng thời gian, lan tỏa theo hương lúa đồng nội quê hương. Những vần thơ dân dã ngọt ngào ấy đã thấm sâu vào tâm hồn thơ bé mỗi chúng ta qua điệu ru của mẹ, tiếng hát của bà. 
  • Chúng ta yêu vô cùng những bài ca dao nói về công việc nhà nông “hai sương một nắng”, ca ngợi đức tính cần cù, lòng kiên nhẫn của người dân cày quê ta

2. Thân bài:

Câu ca dao gợi lên trước mắt chúng ta hình ảnh người nông dân đang lội bùn, tay cầm cày, theo sau con trâu, dưới ánh nắng “ban trưa” chang chang của mùa hạ:

  • Từ tượng thanh “thánh thót” gợi tả mồ hôi rơi xuống từng giọt… từng giọt liên tiếp, gieo vào không gian âm thanh “thánh thót”.
  • “Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày” là hình ảnh so sánh thậm xưng gợi tả công việc cày đồng vất vả, cực nhọc không thể nói hết.
  • “Mưa” làm cho lúa xanh tươi, cũng như “mồ hôi” đổ xuống luông cày làm cho đất đai thêm màu mỡ.

Nhà thơ dân gian nhắn gửi mọi người gần xa một ý nghĩ với bao tình cảm đẹp. Mỗi khi “bưng” bát cơm đầy chúng ta ghi nhớ công ơn khó nhọc của người nông dân đã cuốc bẫm cày sâu, sản xuất ra lúa gạo cho nhân dân no ấm.

  • Tính từ “dẻo thơm” đối lập với tính từ “đắng cay”, “một hạt” đối lập với “muôn phần”, làm nổi bật sức lao động sáng tạo của nhà nông.
  • Câu ca dao đã nâng nhận thức và cảm xúc cho mọi người về giá trị của bông lúa, hạt gạo, bát cơm dẻo thơm mà ta được hưởng thụ hàng ngày thật đáng quý vô ngần.
  • Liên hện : Nhân dân ta gọi hạt gạo là “hạt vàng”, “hạt ngọc” với tất cả lòng tự hào, trân trọng. “Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta no” (Nguyễn Duy).
  •  Thời điểm chiến tranh, hạt gạo mang nặng tình hậu phương, ai mà quên được: “Hạt gạo làng ta – Gửi ra tiền tuyến – Gửi về phương xa – Em vui em hát – Hạt vàng làng ta” (Trần Đăng Khoa). Yêu kính và biết ơn, mỗi chúng ta khắc vào tâm hồn lởi nhắn gọi thiết tha

3. Kết bài: Cảm nghĩ của em

Bài viết

Ca dao là khúc hát tâm tình của người dân quê Việt Nam lưu truyền qua năm tháng thời gian, lan tỏa theo hương lúa đồng nội quê hương. Những vần thơ dân dã ngọt ngào ấy đã thấm sâu vào tâm hồn thơ bé mỗi chúng ta qua điệu ru của mẹ, tiếng hát của bà. Chúng ta yêu vô cùng những bài ca dao nói về công việc nhà nông “hai sương một nắng”, ca ngợi đức tính cần cù, lòng kiên nhẫn của người dân cày quê ta. Hình ảnh người nông dân sao mà đáng yêu thế:

Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.

Ai ơi, bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.

Hai câu đầu miêu tả cảnh cày đồng. Câu ca dao gợi lên trước mắt chúng ta hình ảnh người nông dân đang lội bùn, tay cầm cày, theo sau con trâu, dưới ánh nắng “ban trưa” chang chang của mùa hạ. Người và con trâu phải làm việc vô cùng vất vả. Mồ hôi tuôn ra như mưa. Từ tượng thanh “thánh thót” gợi tả mồ hôi rơi xuống từng giọt… từng giọt liên tiếp, gieo vào không gian âm thanh “thánh thót”. “Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày” là hình ảnh so sánh thậm xưng gợi tả công việc cày đồng vất vả, cực nhọc không thể nói hết. “Mưa” làm cho lúa xanh tươi, cũng như “mồ hôi” đổ xuống luông cày làm cho đất đai thêm màu mỡ. Nghệ thuật so sánh “mồ hôi” với “mưa” thật là sáng tạo, làm cho người đọc, người nghe thấm thía, cảm thông với bao cực nhọc của nhà nông. Thật vậy, bà con nông dân đã đổ biết bao mồ hôi, công sức vào luống cày, sá bừa, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, để làm ra bông lúa, củ khoai nuôi sống xã hội. Câu ca dao đã vẽ lên một hình ảnh tuyệt đẹp về người nông dân trên cánh đồng quê hương. Đó là những con người khỏe mạnh dẻo dai, cần mẫn và chịu khó:

Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.

Hai tiếng cảm thán “ai ơi!” vang lên một cách tha thiết, tạo nên âm điệu êm ái, ngọt ngào. Nhà thơ dân gian nhắn gửi mọi người gần xa một ý nghĩ với bao tình cảm đẹp. Mỗi khi “bưng” bát cơm đầy chúng ta ghi nhớ công ơn khó nhọc của người nông dân đã cuốc bẫm cày sâu, sản xuất ra lúa gạo cho nhân dân no ấm. Câu ca sâu lắng, thấm thía:

Ai ơi, bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.

Câu cuối bài ca dao được tạo nên bằng nghệ thuật tương phản đặc sắc. Câu tám chữ chia làm hai vế đối nhau: “Dẻo thơm một hạt // đắng cay muôn phần”. Tính từ “dẻo thơm” đối lập với tính từ “đắng cay”, “một hạt” đối lập với “muôn phần”, làm nổi bật sức lao động sáng tạo của nhà nông. Câu ca dao đã nâng nhận thức và cảm xúc cho mọi người về giá trị của bông lúa, hạt gạo, bát cơm dẻo thơm mà ta được hưởng thụ hàng ngày thật đáng quý vô ngần. Cho nên, nhân dân ta mới gọi hạt gạo là “hạt vàng”, “hạt ngọc” với tất cả lòng tự hào, trân trọng. “Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta no” (Nguyễn Duy).

Cũng như phần lớn ca dao, dân ca, bài “Cày đồng đang buổi ban trưa..” được viết bằng thể thơ lục bát quen thuộc. Giọng thơ nhẹ nhàng thấm thía. Ngôn từ chọn lựa tinh tế, vừa giàu tính gợi hình, vừa đậm đà sắc thái biểu cảm: thánh thót, dẻo thơm, đắng cay, bát cơm đầy,… Các biện pháp tu từ: ví von so sánh, tương phản đối lập được vận dụng sáng tạo để viết nên những vần thơ giàu hình ảnh, nhạc điệu.

Nước ta là một nước nông nghiệp, trên 80% dân số sống bằng nghề nông. Người nông dân Việt Nam cần cù, chất phác, hiền lành, dũng cảm và giàu lòng yêu nước.

Với đức tính cần mẫn, dẻo dai và sáng tạo, người nông dân đã làm nên những mùa vàng bát ngát, đem đến sự ấm no cho xã hội. Mọi gia đình có bát cơm dẻo thơm, đất nước có nhiều lương thực xuất khẩu là nhờ vào công sức người nông dân. Thời điểm chiến tranh, hạt gạo mang nặng tình hậu phương, ai mà quên được: “Hạt gạo làng ta – Gửi ra tiền tuyến – Gửi về phương xa – Em vui em hát – Hạt vàng làng ta” (Trần Đăng Khoa). Yêu kính và biết ơn, mỗi chúng ta khắc vào tâm hồn lởi nhắn gọi thiết tha:

Ai ơi, bưng bát cơm đầy

Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng!

Bài mẫu 3: Giải thích bài ca dao: " Cày đồng đang buổi ban trưa.......Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần"

Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thành thót như mưa ruộng cày

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dèo thơm một hạt đắng cay muôn phần

" Cày đồng đang buổi ban trưa.......Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần"

Dàn ý 

1. Mở bài: 

  • Đất nước ta là đất nước của nền văn minh lúa nước, bởi vậy cây lúa có ý nghĩa to lớn trong đời sống tinh thần của mỗi chúng ta
  • Để làm nên một hạt lúa dẻo thơm, trắng ngon không phải là một điều đơn giản, dễ dàng, và ông cha ta xưa đã có câu ca dao trên

2. Thân bài:

Hai câu ca dao đầu tiên đã khai quát nên nỗi cơ cực, vất vả của người nông dân:

  • Thời điểm trưa là thời điểm nóng nực, và mệt nhọc nhất của một ngày lao động, ấy vậy mà những người nông dân không hề nghỉ ngơi, mà vẫn thoăn thoắt đôi tay nhặt cỏ úa, bắt sâu, mong sao cho từng cây lúa nặng trĩu bông được mùa.
  • Cách nói khoa trương phóng đại, mồ hôi được ví như mưa ruộng cày, để khẳng định mồ hôi ra rất nhiều, với cách nói đầy hình ảnh này đã giúp người đọc hình dung rõ hơn về nỗi vất vả mà người nông dân phải trải qua.

Hai câu sau là lời nhắn gửi chân thành, tha thiết đến với mỗi người sử dụng hạt gạo mà họ nhọc công chăm bón:

  • Đại từ ai là đại từ phiếm chỉ, không hướng đến bất cứ một đối tượng cụ thể nào, bởi vậy tính chất nhắn nhủ đến mọi người lại được mở rộng hơn.
  • Khi chúng ta bưng bát cơm thơm ngon lên, có mấy ai nhớ đến công lao của những người đã làm ra nó.

Giá trị của bài thơ đến tận ngày nay: 

  • Hôm nay, họ vẫn thiếu vốn, thiếu phân, thiếu kĩ thuật tiên tiến.
  • Thiên nhiên khắc nghiệt cũng vẫn luôn là mối đe dọa, rình rập người nông dân.

Mở rộng và bài học:

  • Nhà nước ta đã có chính sách rất tốt cho nông dân nghèo vay vốn nhưng người trí thức Việt Nam vẫn chưa mạnh dạn trở về đồng ruộng để trả ơn tiền nhân, đưa khoa học vào nông nghiệp.
  • Bổn phận và trách nhiệm của thế hệ chúng ta những người trí thức mới chính là cần học tập trở về quê hương cải tiến kĩ thuật, thì thực sự ta mới đền công ơn thầm lặng của bao nông dân việt Nam.

3. Kết bài: Được hưởng bất cứ thành quả gì chúng ta cũng cần ghi nhớ công ơn, sức lực mà những người nông dân đã làm ra nó. Hãy là con người sống thủy chung, tình nghĩa, sống theo tôn chỉ “Uống nước nhớ nguồn” truyền thống ngàn đời của dân tộc.

Bài viết

Đất nước ta là đất nước của nền văn minh lúa nước, bởi vậy cây lúa có ý nghĩa to lớn trong đời sống tinh thần của mỗi chúng ta. Nhưng để làm nên một hạt lúa dẻo thơm, trắng ngon không phải là một điều đơn giản, dễ dàng, và ông cha ta xưa đã có câu:

Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo tơm một hạt, đắhng cay muôn phần.

Quả thực làm nông nghiệp đã vất vả, phải “Trông trời, trông đất, trông mưa/ Trông mây, trông nắng, trông ngày trông đêm” thì công việc trồng lúa còn vất vả gấp bội phần. Hai câu ca dao đầu tiên đã khai quát nên nỗi cơ cực, vất vả đó:

 

Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.

Câu ca dao mở ra không gian rộng lớn, cánh đồng mênh mông, bát ngát người nông dân bé nhỏ, khiêm nhường, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời đang cần mẫn làm việc. Thời điểm trưa là thời điểm nóng nực, và mệt nhọc nhất của một ngày lao động, ấy vậy mà những người nông dân không hề nghỉ ngơi, mà vẫn thoăn thoắt đôi tay nhặt cỏ úa, bắt sâu, mong sao cho từng cây lúa nặng trĩu bông được mùa. Câu thơ thứ hai càng nói rõ hơn nỗi vất vả ấy. Cách nói khoa trương phóng đại, mồ hôi được ví như mưa ruộng cày, để khẳng định mồ hôi ra rất nhiều, với cách nói đầy hình ảnh này đã giúp người đọc hình dung rõ hơn về nỗi vất vả mà người nông dân phải trải qua.

Nếu như hai câu ca dao trên là những lời chia sẻ, giãi bày về những cực nhọc trong quá trình làm nông, thì hai câu sau là lời nhắn gửi chân thành, tha thiết đến với mỗi người sử dụng hạt gạo mà họ nhọc công chăm bón:

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần

Đại từ ai là đại từ phiếm chỉ, không hướng đến bất cứ một đối tượng cụ thể nào, bởi vậy tính chất nhắn nhủ đến mọi người lại được mở rộng hơn. Khi chúng ta bưng bát cơm thơm ngon lên, có mấy ai nhớ đến công lao của những người đã làm ra nó. Có mấy ai đã cảm ơn những người đã đem đến những gì tinh túy nhất của trời đất để nuôi ta khôn lớn. Bởi vậy, lời thơ càng trở nên tha thiết, khắc khoải hơi, nó như nhắn nhủ, hãy nhớ đến công lao chúng tôi đã làm, công sức mưa nắng dãi dầu mà chúng tôi đã bỏ ra, bởi để làm nên được một hạt gạo phải trải qua muôn phần đắng cay, cực nhọc.

Ngày nay, nhờ cơ giới hóa nông nghiệp, nông dân đã bớt vất vả hơn nhưng bài ca dao vẫn còn giá trị đặc biệt. Hôm nay, họ vẫn thiếu vốn, thiếu phân, thiếu kĩ thuật tiên tiến. Thiên nhiên khắc nghiệt cũng vẫn luôn là mối đe dọa, rình rập người nông dân. Nhà nước ta đã có chính sách rất tốt cho nông dân nghèo vay vốn nhưng người trí thức Việt Nam vẫn chưa mạnh dạn trở về đồng ruộng để trả ơn tiền nhân, đưa khoa học vào nông nghiệp. Đó là bổn phận và trách nhiệm của thế hệ chúng ta những người trí thức mới dám về quê hương cải tiến kĩ thuật, thì thực sự ta mới đền công ơn thầm lặng của bao nông dân việt Nam.

 

Quả đúng như Nguyễn Trãi đã từng viết “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”. Được hưởng bất cứ thành quả gì chúng ta cũng cần ghi nhớ công ơn, sức lực mà những người nông dân đã làm ra nó. Hãy là con người sống thủy chung, tình nghĩa, sống theo tôn chỉ “Uống nước nhớ nguồn” truyền thống ngàn đời của dân tộc.

" Cày đồng đang buổi ban trưa.......Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần"
Phần trên, hocthoi.net đã soạn đầy đủ lý thuyết và bài tập của bài học: Văn mẫu lớp 8: Giải thích bài ca dao: " Cày đồng đang buổi ban trưa.......Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần" . Bài học nằm trong chuyên mục: Văn mẫu lớp 8. Phần trình bày do hanoi tổng hợp và thực hiện giải bài. Nếu có chỗ nào chưa rõ, có phần nào muốn hiểu rộng thêm, bạn đọc vui lòng comment bên dưới. Ban biên tập sẽ giải đáp giúp các bạn trong thời gian sớm nhất.

Bài soạn các môn khác

Bình luận