Danh mục bài soạn

Giải Ngữ văn 11 tập 1 sách KNTT Bài 1 Vợ nhặt ( Kim Lân)

Hướng dẫn học môn Ngữ văn 11 tập 1 sách mới Kết nối tri thức. Dưới đây là lời giải chi tiết Bài 1 Vợ nhặt ( Kim Lân). Từng bài tập được giải chi tiết, rõ ràng, dễ hiểu. Hi vọng, hocthoi.net sẽ hỗ trợ các em trong quá trình học tập, giúp các em ngày càng tiến bộ hơn.

TRƯỚC KHI ĐỌC 

Câu hỏi 1. Bạn biết gì về nạn đói năm Ất Dậu (1945) xảy ra ở Việt Nam?

Lời giải:

Nạn đói năm Ất Dậu là một nạn đói lớn xảy ra tại miền Bắc Việt Nam trong khoảng từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945, làm khoảng từ 400.000 đến 2 triệu người dân chết đói. Đây là nạn đói lịch sử, là một cơn ác mộng và nỗi nhức nhối khó quên. Năm 1945, Việt Nam chịu sự áp bức, bóc lột nặng nề của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Chính vì những chính sách vơ vét thóc gạo của hai kẻ thù này và đặc biệt là phát xít Nhật cùng với ảnh hưởng của thiên tai, mất mùa, người dân Việt Nam đã phải chịu đựng nạn đói khủng khiếp kéo dài từ tháng 10/1944 đến năm 1945 với trên 2 triệu đồng bào chết trong nạn đói. 

Câu hỏi 2. Theo bạn, có phải lúc nào nghịch cảnh trong đời sống ( như nạn đói, thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh,....) cũng chỉ đẩy con người vào tình thế bi quan, tuyệt vọng hay không? Vì sao? 

Lời giải:

- Không phải lúc nào nghịch cảnh trong đời sống (như nạn đói, thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh,…) cũng chỉ đẩy con người vào tình thế bi quan, tuyệt vọng.

- Bởi vì chính trong những nghịch cảnh đời sống ấy giúp con người có động lực để vượt qua khó khăn, hướng tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Thay vì cảm thấy tuyệt vọng, phó mặc cho số phận, nhiều người đã tự tìm kiếm cơ hội cho mình từ trong chính hoàn cảnh bất hạnh đó. Họ nhìn thấy niềm tin, hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn, biến nó thành động lực để bản thân cố gắng, vượt lên trên nghịch cảnh, kiếm tìm hạnh phúc cho riêng mình. Đây là một trong những phẩm chất đáng quý nhất của con người: luôn kiếm tìm cơ hội trong nghịch cảnh và không đầu hàng trước số phận khổ đau. 

ĐỌC VĂN BẢN 

Câu hỏi 1. Khung cảnh ngày đói được gợi ra qua những hình ảnh và cảm giác nào? 

Lời giải:

Khung cảnh ngày đói được gợi ra qua những hình ảnh: những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. 

Cảm giác rùng rợn và mùi ôi thối từ những xác chết con người nằm còng queo bên đường, cuộc sống bình thường bỗng tràn ngập sự lo lắng, mệt mỏi bởi cái đói đang tràn về và biểu hiện trên mỗi con người từ Tràng cho đến mấy đứa trẻ con. 

Câu hỏi 2. Tâm trạng của Tràng và người "vợ nhặt" được bộc lộ qua những biểu hiện bên ngoài (ngôn ngữ, cử chỉ, điệu bộ,...) nào? 

Lời giải:

Tâm trạng của Tràng và người “vợ nhặt” được bộc lộ qua những biểu hiện:

- Tràng: mặt phớn phởn khác thường, tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh; Tràng nghiêm mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng với đám trẻ con. 

- Người “vợ nhặt”: Thị cắp cái thúng, người hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt; Thị có vẻ rón rén, e thẹn.

Câu hỏi 3. Người dân trong xóm nghĩ và bàn luận hì khi thấy Tràng dẫn một người phụ nữ lạ về nhà?

Lời giải:

  • Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán, có vẻ hiểu được đôi phần. Mọi người đều thắc mắc xem đó là ai và cuối cùng là vợ anh cu Tràng. Nhưng cũng có người thở dài, nghi hoặc. Người khác thì lại cười, cảm thán thay Tràng vì đang trong lúc đói khổ lại lấy vợ. 

Câu hỏi 4. Những chi tiết nào thể hiện sự thay đổi trong tâm trạng của Tràng và người "vợ nhặt" khi về đến nhà?

Lời giải:

Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang

  • Dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp của thị khi bên Tràng vào lúc trời chạng vạng (thị đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón rách che nghiêng, “rón rén, e thẹn”, ngượng nghịu, “chân nọ bước díu cả vào chân kia”...)
  • Sau một ngày làm vợ, thị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình – hình ảnh của một người vợ hiền, một cô dâu thảo.
  • Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, thị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính thị đã làm

Câu hỏi 5. Chú ý ngôn ngữ và cách ứng xử của người phụ nữ trước khi theo Tràng về nhà.

Lời giải:

Ngôn ngữ và cách ứng xử của người phụ nữ trước khi theo Tràng về nhà là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh: 

  • Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và “liếc mắt cười tít” với Tràng.
  • Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Đã vậy, thị còn chủ động đòi ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon…

Câu hỏi 6. Việc Tràng chấp nhận hành động "theo về" của một người phụ nữ xa lạ thể hiện nét tính cách gì của nhân vật?

Lời giải:

  • Việc Tràng chấp nhận hành động “theo về” của một người phụ nữ xa lạ thể hiện Tràng là một người vô tư, không biết tính toán, không ý thức hết hoàn cảnh của mình. Hành động chấp nhận “theo về” của Tràng là bộc phát và xuất phát từ mong muốn của Tràng, không có sự xem xét, cân nhắc kỹ.

Câu hỏi 7. Chú ý hình thức lời văn được tác giả sử dụng để thể hiện tâm trạng bà cụ Tứ trong tình huống này.

Lời giải:

Sự ngạc nhiên đến sững sờ khi thấy người đàn bà lạ trong nhà. 

- Tình huống đặc biệt làm cho bà cụ Tứ ngạc nhiên, ấy là việc con trai mình lấy vợ. Bà cụ ngạc nhiên vì con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư lại đang thời buổi đói khát, nuôi thân chẳng xong. 

- Khi bà cụ đi làm về muộn, thấy người đàn à ngồi ở đầu giường con mình rất ngạc nhiên, càng ngạc nhiên hơn khi được người đàn bà chào bằng u và được Tràng giới thiệu: " Kìa nhà tôi nó chào u". " Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ". 

Câu hỏi 8. Tình cảm của bà cụ Tứ dành cho người con dâu mới được thể hiện qua giọng điệu và những từ ngữ nào? 

Lời giải:

 Bà vừa mừng vừa tủi khi hiểu mọi chuyện. Với giọng điệu: nhẹ nhàng, thể hiện sự quan tâm, ân cần của một người mẹ với con. 

- Khi đã vỡ lẽ, đã hiểu ra con mình "nhặt" được vợ, bà "cúi đầu nín lặng". Bà liên tưởng đến bao cơ sự "oái ăm" "ai oán" "xót thương" cho số kiếp của đứa con mình. Bà liên tưởng đến người chồng quá cố, đến đứa con gái đã qua đời, lòng bà trĩu nặng tủi buồn, xót xa. 

- Bà cụ Tứ mừng cho con từ nay yên bề gia thất, tủi thân làm mẹ không lo nổi vợ cho con. Giờ đây giữa lúc người chết đói " như ngả rạ" lại có người theo con trai bà về làm vợ. Cái tủi, cái buồn của người mẹ bọ dồn vào cảnh nghèo cùng quẫn. Biết lấy gì để cúng tổ tiên, để trình làng khi con đã có vợ, Bà cụ Tứ khóc vì mừng con có vợ, khóc vì thương con dâu không biết làm sao vượt qua nỗi khó khăn này. 

Câu hỏi 9. Khung cảnh ngày mới được cảm nhận chủ yếu từ điểm nhìn của nhân vật nào?

Lời giải:

  • Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo,...)
  • Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình.
  • Thấy mình trưởng thành hơn, có trách nhiệm hơn với gia đình, với mẹ, với vợ và những đứa con sau này.
  • Lúc ăn cơm hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới trong suy nghĩ. -> Hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.

=> Từ khi nhặt được vợ, nhân vật Tràng đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp: hào phóng, quên đi hết những cay cực tăm tối trên đời, chấp nhận cuộc sống khốn khó cùng vợ vượt qua tất cả, tin tưởng sự đổi đời ở tương lai.

Câu hỏi 10. Chú ý những chi tiết miêu tả sự thay đổi của nhân vật bà cụ Tứ và người "vợ nhặt" trong buổi sáng của ngày đầu tiên sau khi Tràng nhặt được vợ.

Lời giải:

Bà cụ Tứ thấy nhẹ nhõm, tươi tỉnh lên hẳn, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên; bà xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Đến khi bà cụ Tứ bê nồi cháo cám ra, khi Thị điềm nhiên và vào miệng, bà cụ Tứ tươi cười khen “Ngon đáo để”.

Thị đã thay đổi hoàn toàn, thị trở nên “hiền hậu đúng mực”, đảm đang, vun vén cho hạnh phúc gia đình. Điều này cho thấy rằng chính con người có thể thay đổi được hoàn cảnh, đem đến hơi ấm mới cho gia đình. 

Câu hỏi 11. Chú ý vai trò chi tiết nồi chè khoán. 

Lời giải:
Là một chi tiết đắt giá trong truyện, hình ảnh “nồi cháo khoán” còn có ý nghĩa rất cao về nghệ thuật. Là một trong những chi tiết có tính thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa rõ nét tính cách, và tâm lí hành động của người mẹ nghèo nhưng rất thương con. Tuy là một chi tiết nhỏ, nhưng lại mang sức gợi rất cao. Đó là sự tin tưởng, một khát vọng sống vươn lên hoàn cảnh, và còn là sức mạnh của tình thương, một trái tim đẹp của con người dành cho nhau. Thông qua đó còn gửi gắm một tấm lòng nhân đạo của ông dành cho con người, luôn tôn vinh và ngợi ca họ dù trong hoàn cảnh khó khăn và khốn cùng của kiếp người. Và nhờ chi tiết độc đáo “nồi cháo khoán” đã cho ta thấy một tầm vóc lớn của một nhà văn giàu lòng nhân đạo. Chi tiết đã nâng tầm của câu truyện lên và khiến cho ta, về sau khi đọc lại, vẫn sẽ luôn nhớ mãi một chi tiết “nồi cháo khoán” giản dị như một hơi ấm nhen lên giữa những ngày đau thương của dân tộc.

Câu hỏi 12. Tại sao bà cụ Tứ ngoảnh mặt vội ra ngoài, "không dám để con dâu nhìn thấy mình khóc"?

Lời giải:
Bởi bà không muốn các con thấy được sự lo âu đau buồn. Bà cụ Tứ ngoảnh vội ra ngoài, “không dám để con dâu nhìn thấy” mình khóc bởi bà đang muốn đem đến cho các con một niềm vui, niềm hy vọng vào cuộc sống tương lai tươi sáng, nhưng hiện thực tàn khốc đã dập tắt niềm vui nhỏ bé trong bà và bà không muốn các con cảm thấy buồn.

Câu hỏi 13. Tràng có tâm trạng như thế nào khi nghe câu chuyện mà người "vợ nhặt" kể?

Lời giải:
Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi, cái mặt to lớn bặm lại, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm trong miệng hắn đã bã ra chát xít và nghĩ tới những người phá kho thóc Nhật. 

Câu hỏi 14. Hình ảnh ''lá cờ đỏ" hiện lên trong tâm trí của Tràng có ý nghĩa gì?

Lời giải:

Hình ảnh lá cờ hiện lên trong đầu Tràng: Tràng đã bắt đầu mơ hồ tìm thấy con đường đi cho tương lai của mình đồng thời cũng nói lên bước đầu của sự nhận thức, giác ngộ với cách mạng của những người dân trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.

Hình ảnh “lá cờ đỏ” như một dấu hiệu cho sự hiện diện của Cách mạng, của Đảng đang đến gần với người dân, cứu vớt họ khỏi cuộc sống nghèo đói, khổ đau. Lá cờ đỏ cũng chính là niềm hy vọng, niềm tin vào một tương lai tươi sáng sẽ đến với cuộc sống của gia đình Tràng, của nhiều gia đình khác vào thời điểm khó khăn lúc bấy giờ. 

SAU KHI ĐỌC 

Câu hỏi 1. Giữa nhan đề Vợ nhặt và nội dung câu chuyện có mối quan hệ với nhau như thế nào?

Lời giải:

- Trước hết, từ “vợ” là một danh từ thiêng liêng, dùng để chỉ người phụ nữ trong mối quan hệ được pháp luật công nhận với “chồng”. Theo phong tục, vợ chồng chỉ được công nhận khi có sự chứng kiến của họ hàng, làng xóm. Còn “nhặt” là hành động cầm vật bị đánh rơi lên.

- Kim Lân đã sáng tạo ra một nhan đề độc đáo. Vì người ta chỉ nói “nhặt” được một món đồ nào đó. chứ không ai nhặt được một con người về làm vợ bao giờ cả. Nhưng qua đó, nhà văn đã thể hiện được cảnh ngộ thê thảm của con người lúc bấy giờ.

- Nhan đề “Vợ nhặt” trước hết khái quát được tình huống của truyện. Đồng thời đó cũng lời kết án đanh thép của Kim Lân đối với chế độ thực dân đã đẩy người nông dân vào tình cảnh nghèo đói, người “chết như ngả rạ”.

- Nhan đề “Vợ nhặt” có tính khái quát cao, hoàn cảnh của Tràng chỉ là một trong số đó. Đồng thời, qua nhan đề nhà văn cũng thể hiện sự đồng cảm xót xa cho cảnh ngộ của người nông dân trong nạn đói năm 1945.

Câu hỏi 2. Xác định tình huống truyện và nêu ý nghĩa của nó.

Lời giải:

Tình huống truyện: một anh chàng dân ngụ cư, xấu xí, nghèo khổ như Tràng lại có thể “nhặt” được vợ một cách ngẫu nhiên và quá dễ dàng, chỉ bằng mấy câu hát, mấy lời nói bông đùa “tầm phơ tầm phào” và vài bát bánh đúc.

Ý nghĩa: 

- Giá trị hiện thực:

+ Phác họa tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói

  • Cái đói dồn đuổi con người.
  • Cái đói bóp méo cả nhân cách.
  • Cái đói khiến cho hạnh phúc thật mỏng manh, tội nghiệp.

+ Tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân Pháp, phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp.

- Giá trị nhân đạo

+ Tình người cao đẹp thể hiện qua cách đối xử với nhau của các nhân vật.

  • Tràng rất trân trọng người "vợ nhặt" của mình.
  • Thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người "vợ nhặt"
  • Tình yêu thương con của bà cụ Tứ.

+ Con người luôn hướng đến sự sống và luôn hi vọng, tin tưởng ở tương lai:

  • Tràng lấy vợ là để duy trì sự sống.
  • Bà cụ Tứ, một người già lại luôn miệng nói về ngày mai với những dự định thiết thực tạo niềm tin cho con dâu vào một cuộc sống tốt đẹp.
  • Đoạn kết tác phẩm với hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phá kho thóc Nhật.

Câu hỏi 3. Câu chuyện trong Vợ nhặt được kể theo trình tự nào và có thể chia làm mấy phần?

Lời giải:

- Phần 1 (từ đầu ... "tự đắc với mình"): Tràng đưa được người vợ nhặt về nhà

- Phần 2 (tiếp ... "đẩy xe bò"): chuyện hai vợ chồng gặp nhau, thành vợ thành chồng

- Phần 3 (tiếp ... "nước mắt chảy ròng ròng"): tình thương của người mẹ nghèo khó

- Phần 4 (còn lại): niềm tin vào tương lai

Câu hỏi 4. Theo trình tự của câu chuyện, các nhân vật đã có những thay đổi như thế nào từ diện mạo, tâm trạng đến cách ứng xử?

Lời giải:

Tràng thì một người khờ khệnh, sống vô lo vô nghĩ cuối cùng đã biết lo cho cuộc sống tương lai. 

Thị thì từ một người con gái thô kệch, đáo để cuối cùng trở thành một người vợ hiền dịu, đảm đang, tháo vát. 

Bà cụ Tứ thì một người ảm đạm, mặt mày xám xịt trở thành người vui vẻ, tươi tắn hẳn lên. 

Câu hỏi 5. Phân tích những nét đáng chú ý trong cách người kể chuyện quan sát và miêu tả sự thay đổi của các nhân vật (thể hiện ở các khía cạnh: điểm nhìn, lời kể và giọng điệu).

Lời giải:

Nhân vật Tràng từ trong cuộc sống bước vào trang văn của Kim Lân chân thực gần như không gọt giũa gì. Nhà văn giới thiệu anh là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bò thuê nuôi mẹ già. Cuộc sống người dân ngụ cư vừa tủi cực vừa khốn khó. Anh ở trong một căn nhà rách nát, tồi tàn. Anh thường bị mọi người trêu chọc và khinh rẻ. Đến trẻ con cũng lấy anh làm trò đùa. Vì anh là dân ngụ cư. Đó là một gốc tích không mấy sáng sủa. Nó gợi ra số phận trôi nổi, lận đận và gian truân của lớp người vì bần cùng quá phải tha hương cầu thực, tìm kiếm nguồn sống trong xã hội.

Không những thế, Tràng lại có một ngoại hình rất thô kệch, xấu xí. Vai anh to bè ra. Cái lưng to rộng như lưng gấu. Dáng đi khom khom trong rất dị. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười. Hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều. Hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn… Còn đầu của Tràng thì cạo trọc nhẵn, ngay cả cái cười cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệch.

Hành vi của hắn lại càng thêm bí ẩn. Mỗi buổi chiều về, hắn bước ngật ngưỡng trên con đuờng khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào bên trong bến. Tràng xuất hiện trước cuộc đời với những điều lạ lẫm. Rồi khi trở về, hắn lại chìm khuất trong bóng tối, trong cái nghèo cùng kiệt, trong góc khuất của riêng mình. Chỉ có mình hắn mới biết hắn là ai.

Thế nhưng, nhà văn đã xâm nhập vào cuộc sống của nhân vật này. Ông từng bước làm hiện ra trước mắt người đọc cuộc sống và tính cách của nhân vật bí ẩn ấy.

Cũng giống như bao nhiều người lao động hiền lương khác, Tràng là người khá vô tư và nông cạn. Hầu như anh không hề toan tính gì. Anh cũng không quá khổ tâm vè hoàn cảnh khốn khó của mình. Cuộc sống của anh cứ tiếp diễn từng ngày bình tâm và tin tưởng.

Tràng lại là người thích chơi với trẻ con. Mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm cứ thấy cái thân hình to lớn, vập vạp của hắn từ dốc chợ đi xuống là ùa ra vây lấy hắn, reo cười váng lên. Rồi chúng, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi. Ban đầu anh hơi khó chịu về những hành động ấy. Nhưng sau lâu dần anh lại thích bọn chúng. Chúng mang đến cho anh sự rộn ràng, thoải mái sau một ngày lao động cực nhọc. Chúng khiến anh quan tâm đến cái xóm ngụ cư vốn im lặng và lầm lũi trong đói nghèo. Anh với lũ trẻ con như anh em, bè bạn và cái xóm ngụ cư ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một chút.

Cái tính vô tư của anh thể hiện rõ nhất ở việc anh lấy vợ. Là dân ngụ cư, anh đâu dám mong có ai đó thương và chịu làm vợ anh. Từ lâu anh đã không dám nghĩ đến điều đó. Lại trong lúc cái đói, cái chết tung hoành, luồn lách sâu trong cuộc sống. Nó nằm kề cận với con người đêm đêm, thủ thỉ những lời ghê rợn. Thế mà, khi người đàn bà chỏng lỏn kia buông lời trêu ghẹo, Tràng cũng đáp lời vui đùa. Ai ngờ, lời nói chơi lại thành thật. Tràng hơi bất ngờ nhưng anh chậc lưỡi một cái và chấp nhận luôn. Thật là xưa nay chưa có ai quyết định việc lấy vợ nhanh chóng như Tràng.

Tràng là người đàn ông nhân hậu, phóng khoáng. Trong cảnh khốn khó, nhờ có sức khỏe, Tràng dễ dàng tìm được công việc tốt. Ngoài kia biết bao người thất nghiệp, cù bơ cù bất, thấp thỏm đứng ngồi chờ đợi. Họ đối diện với cái đói, cái chết từng ngày.  Anh thấu hiểu điều đó. Thế nên, thấy người đàn bà đói, thân hình héo hắt, anh cho ăn. Khi thấy thị quyết theo mình thì Tràng cũng vui vẻ chấp nhận. Có thể lúc đó anh không nhận thức hết được trách nhiệm của bản thân và những khó khăn sắp tới. Tràng lấy vợ trước hết vì lòng thương đối với một con người đang đói khát hơn mình.

Sau khi người đàn bà theo Tràng về tới nhà, anh cũng có ý thức xác nhận vị trí của người đàn bà trong gia đình và bắt tay vào sắm sửa chuẩn bị cho cuộc sống mới.

Lấy nhau chẳng phải vì tình, lại “nhặt vợ” một cách dễ dàng, nhưng không vì thế mà Tràng coi thường người vợ của mình. Anh tôn trọng vợ với tư cách là một con người thực sự chứ không phải là một cái gì đó mà anh vừa nhặt được. Và để thể hiện điều đó, anh sẵn sàng bỏ tiền mua dầu thắp sáng, mua một thứ lặt vặt cần thiết để làm mới cuộc sống. Tràng tỏ ra trân trọng và mừng rỡ, nâng niu cái hạnh phúc vừa chợt đến.

Cảnh sống tăm tối trước mặt bị lu mờ, không đủ sức đe dọa con người nữa. Giờ đây, trong lòng hắn chỉ còn tình nghĩa gắn bó với người đàn bà trong một gia đình ấm áp. Trên đường cùng người đàn bà trở về, dường như có một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy. Nó cứ ôm ấp mơn man khắp da thịt Tràng. Tựa hồ như có bàn tay vuốt ve nhẹ trên sống lưng.

Chính nhờ người vợ nhặt ấy đã biến Tràng từ một người đàn ông vô tư trở thành một người sống có trách nhiệm. Anh ngoan ngoãn với mẹ hơn, tỏ ra gần gũi và hiếu thảo. Anh tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Đối với vợ anh nhã nhặn, tôn trọng và rất chân tình. Anh thực sự đắm mình trong cuộc sống mới, trong hạnh phúc mới. Buổi sớm hôm sau khi trở dậy, Tràng như vừa bước ra khỏi cơn mơ đẹp, trong người thấy êm ái lửng lơ lạ kì.

Anh bắt đầu quan tâm đến cuộc sống xung quanh, quan tâm đến mọi người. Anh bắt đầu biết xác định vị trí của mình trong cuộc sống và không ngừng khát vọng đổi đời. Những biến cố xã hội lúc này tác động vào nhận thức và tâm hồn anh mãnh liệt. Anh thấy mọi người ầm ầm đi phá kho thóc của Nhật. Anh thấy đằng trước có lá cờ đỏ thắm.

Tất cả những hình ảnh ấy làm cho anh thấy tiếc rẻ và háo hức ở trong lòng. Từ đây, anh bắt đầu gắn cuộc đời mình với mọi người, với cộng đồng. Từ đây, công việc và cuộc sống của mọi người cũng là công việc của anh. Anh thấy mình cần có trách nhiệm hơn. Tình cảm ấy âm thầm chuyển biến mạnh mẽ trong tâm hồn người nông dân cục mịch, thô kệch, hiền lành và làm nên sức mạnh đấu tranh của lớp người cùng khổ sau này.

Cuộc đời của những người như Tràng nếu không có một sự thay đổi mang tính đột biến của cả xã hội sẽ sống mãi trong sự tăm tối, đói khát. Ở Tràng, tuy chưa có được sự thay đổi đó, nhưng cuộc sống đã bắt đầu hé mở cho anh một hướng đi. Đó là con đường đến với cách mạng một cách tự nhiên và tất yếu mà những người như Tràng sẽ đi và trong thực tế lịch sử, người nông dân Việt Nam đã đi.

Sự gắn bó giữa Tràng và người đàn bà quả thật đã đem lại nhiều sự thay đổi lớn. Không chỉ có Tràng thay đổi mà chính vợ Tràng cũng thay đổi. Sau đêm tân hôn, Tràng nom thị hôm nay khác lắm. Rõ ràng thị là người đàn bà hiền hậu, đúng mực.

Giờ đây ở thị không có vẻ gì là chao chát, chỏng lỏn như mấy ngày trước. Thì ra chính cái đói nó che lấp mất bản tính tốt đẹp của con người. Cái đói làm tha hóa con người. Giờ đây, người phụ nữ ấy được yêu thương và tôn trọng. Chính điều đó làm cho thị trở về với đúng bản tính của người phụ nữ. Nó biến chị trở thành người vợ hiền hậu, thương yêu chồng và đúng mực.

Người “vợ nhặt” là hiện thân cho những đau khổ và tủi cực của người dân lao động nghèo trước Cách mạng. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Kim Lân đã không cho cô “vợ nhặt” một danh tính, một tên gọi như bao con người khác mà đây là một dụng ý của nhà văn. Dụng ý của ông là cuộc đời, số phận nhân vật này như hòa lẫn với cuộc đời, số phận của bao người dân nghèo khổ khác lúc bấy giờ.

Hình dáng bên ngoài của thị qua sự miêu tả của nhà văn bên ngoài thật thảm hại. Khuôn mặt gầy sọp hẳn đi vì đói, quần áo rách tả tơi,… Tình huống trớ trêu mà nhân vật người “vợ nhặt” phải trải qua.

Chính cái đói, sự mấp mé với cái chết đã đẩy người phụ nữ vào tình huống trớ trêu. Đó là phải chấp nhận làm người “vợ nhặt” theo không Tràng mà không hề cưới xin ăn hỏi gì. Đây là chi tiết thể hiện rõ sự đen tối của xã hội và thân phận bèo bọt, sự rẻ rúng của con người.

Cuộc sống khắc nghiệt đã góp phần làm biến đổi, tha hóa cô “vợ nhặt” đáng thương ấy. Đó không chỉ là sự thay đổi khốc liệt về hình thức. Chỉ sau mấy ngày không gặp mà thị gầy sọp lại đi. Đó còn một sự biến đổi ghê gớm về tâm tính. Bởi vì quá đói, thị đã không còn biết xấu hổ nữa. Được mời, thị đã ăn liền một mạch hết bốn bát bánh đúc. Lời nói thì chao chát, chỏng lỏn, không còn biết ngượng ngùng.

Nhưng đằng sau cái vẻ bề ngoài rách rưới, ăn nói chao chát, chỏng lỏn ấy, Kim Lân vẫn nhận ra những phẩm chất tốt đẹp, ngời sáng.

Về nhà Tràng, thị như thay đổi hẳn. Thị trở lại với bản tính một người phụ nữ. Thị cùng với bà cụ Tứ xăm xắm quét dọn nhà cửa, vườn tược. Hai ang nước vốn khô cong nay cũng đầy ấy nước. Không phải ai khác mà chính là cô “vợ nhặt” đã đem đến nhà Tràng một nguồn sinh khí mới, một sức sống mới. Điều đó khiến cho các thành viên trong gia đình điều thay đổi theo một hướng tích cực hơn.

Cũng chính cô “vợ nhặt” đã mở cho mọi người một niềm hi vọng đổi thay. Qua câu chuyện hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng và những đoàn người đi phá kho thóc Nhật dự báo điều đó.

Sự thay đổi này cũng được thể hiện ở cả nhân vật bà cụ Tứ – mẹ Tràng. Lúc đầu, bà ngỡ ngàng trước thái độ săn đón, vồn vã của Tràng. Ngạc nhiên trước việc có người đàn bà lạ trong nhà mình (lại đứng ngay đầu giường thằng con trai mình thế kia,…).

Rồi sau, vì thương con, bà không khỏi cảm thấy lo lắng, băn khoăn. Khóe mắt cứ cay cay như muốn khóc. Nhưng rồi sau đó, lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao cơ sự. Nó vừa ai oán, vừa xót thương. Ai oán cho số kiếp của mình. Lại thương xót cho con mình và cả người phụ nữ khốn khổ kia. Bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót: “người ta có đói thì người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ”.

Bà cảm thấy tủi nhục cho gia cảnh nhà mình. Bà xót xa cho việc cưới vợ của Tràng không được diễn ra như ý muốn. Bà nhớ người chồng đã quá cố. Bà nhớ về cuộc đời dài dằng dặc, đầy những khổ đau của mình. Bà tủi hờn bởi nhà nghèo, không có nổi dăm mâm cơm mời làng xóm láng giềng. Bà cố gượng làm vui trước hạnh phúc mong manh của con trai. Bà ao ước mọi người cũng có được niềm vui như mình.

Thế nhưng, chỉ sau mấy ngày nỗi buồn bỗng dưng biến mất. Sự xuất hiện của người vợ nhặt kia đã làm thay đổi người mẹ cằn cỗi ấy. Bà xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rở hẳn lên. Bà lo lắng chuẩn bị bữa ăn đón nàng dâu mới cho chu đáo hơn trong hoàn cảnh có thể. Trong bữa ăn, bà toàn nói những chuyện vui vẻ, hạnh phúc về sau này.

Bà cụ Tứ là một người nhân hậu, thương mình, thương người, thậm chí thương người còn hơn cả thương mình. Dẫu sao việc Tràng có vợ cũng làm cho bà vui hơn. Bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn hơn ngày thường. Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên.

Thế nhưng niềm vui của bà thật ngắn ngủi. Nó không sao cất cánh hẳn được. Nó cứ bị nỗi buồn, nỗi lo âu níu kéo xuống. Mùi khói đốt đống rơm và tiếng hờ khóc người chết đói cứ vang lại. Tiếng trống thúc thuế lúc to lúc nhỏ như kéo mọi người trở về với hiện tại khắc nghiệt, phũ phàng.

Có thể nói, trong hoàn cảnh đen tối, khốn cùng nhất cũng không thể làm mất đi ở người dân lao động tình thương. Lòng nhân hậu, đạo nghĩa làm người trong họ vẫn ấm nóng trong mọi hoàn cảnh. Họ vẫn thèm muốn tìm đến hơi ấm của hạnh phúc. Họ khát khao được gây dựng đời sống giữa lúc khó khăn.

Dường như việc lấy vợ của Tràng đã thổi vào căn nhà u ám, nghèo nàn một luồng gió mới làm thay đổi tất cả. Các thành viên trong gia đình này vui vẻ thu xếp nhà cửa cho sạch sẽ, ngăn nắp hơn: “nhà cửa, sân vườn đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ. Hai cái ang nước vẫn cứ để khô cong nay đã đầy ăm ắp”. Họ nghĩ rằng: “thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn khấm khá hơn”.

Có vợ, Tràng thấy phấn chấn trong lòng và cùng với niềm hạnh phúc là ý thức trách nhiệm đối với mọi người, với cuộc sống. Hắn thấy mình cần có trách nhiệm, bổn phận để chăm lo, vun vén cho cái gia đình này. Vợ Tràng cũng thấy mình phải cố gắng làm được nhiều điều tốt đẹp để đền đáp lại tấm lòng tốt của người đàn ông đang cưu mang che chở cho mình.

Riêng bà mẹ của Tràng thì dường như lột xác, trở thành con người khác hẳn. Bà thấy mình khỏe ra, nhanh nhẹn hơn, thu xếp nhà cửa gọn gàng, sạch sẽ. Bà còn hào hứng vạch ra kế hoạch dự tính về công việc làm ăn cho con trai. Đầu tiên là nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại chẳng mấy mà có đàn gà. Bà tin tưởng vào sự đổi đời. Bà nói toàn chuyện vui, động viên, khích lệ đôi vợ chồng trẻ…

Kim Lân đã khắc hoạ đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động và tình cảm các nhân vật bằng ngòi bút sắc sảo, tinh tế vô cùng. Qua cuộc đời khốn khổ và tủi cực của các nhân vật, không những nhà văn phản ánh một mặt trận đen tối trong hiện thực xã hội trước năm 1945 cùng số phận của người dân nghèo mà còn phát hiện vẻ đẹp tâm hồn của họ. Kim Lân đã tiếp nối những trang viết giàu chất nhân bản về người lao động bình thường của những nhà văn trước đó như Ngô Tất Tố, Thạch Lam, Nam Cao….

Câu hỏi 6. Hãy nêu chủ đề và đánh giá giá trị tư tưởng của tác phẩm.

Lời giải:

  • Chủ đề của Vợ nhặt là phản ánh đời sống của những con người bần cùng, lương thiện, trong cảnh đói kém khủng khiếp do bọn thực dân phong kiến gây ra.
  • Giá trị tư tưởng: lên án xã hội thực dân phong kiến tàn bạo đã đẩy nhân dân ta vào nạn đói khủng khiếp năm 1945, biến con người thành vật vô giá trị, người ra có thể nhặt bất cứ lúc nào. Phát hiện và diễn tả khát vọng của người lao động. Cho dù bị đẩy vào tình cảnh bi đát, phải sống trong sự đe dọa của cái chết, vẫn khao khát tình thương, khao khát hạnh phúc gia đình, hướng về sự sống, tin tưởng tương lai (mà tương lai gắn với cách mạng).

Câu hỏi 7. Có thể xem truyện ngắn Vợ nhặt là một câu chuyện cổ tích trong nạn đói hay không? Nêu và phân tích quan điểm của bạn về điều này.

Lời giải:

  • Truyện ngắn Vợ nhặt không được coi là truyện cổ tích nạn đói vì dựa vào các đặc điểm của truyện cổ tích thì tác phẩm này không phù hợp. Câu chuyện có kết thúc mở, hình ảnh lá cờ kết thúc tác phẩm rất mơ hồ, phải dựa vào nghĩa tường minh để minh giải cho hình ảnh này. Còn đối với truyện cổ tích thì luôn là cái kết có hậu, cái kết trừng phạt những kẻ xấu. Truyện ngắn này chỉ có khắc họa những con người nông dân nghèo khổ còn thế lực xấu thì nói rất ít và không có kết cục của những thế lực ấy. 

KẾT NỐI ĐỌC - VIẾT

Đề bài: Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của bạn về một thông điệp có ý nghĩa với bản thân được rút ra từ truyện ngắn Vợ nhặt.

Lời giải:

Qua truyện “Vợ nhặt”, tác giả Kim Lân còn cho ta thấy được trong hoạn nạn, con người lao động càng yêu thương nhau hơn dù trong cảnh khó khăn, khốn cùng, họ vẫn giữ được phẩm chất đẹp đẽ “đói cho sách rách cho thơm”. Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim - một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thuỷ” ấy.Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay ngay vào viết tác phẩm Xóm ngụ cư khi hoà bình lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy.Cuộc sống khắc nghiệt đọa đày con người bắt họ phải sống cuộc sống của loài vật, nhưng nó không thể dập tắt được phần người, rất người trong lòng bà mẹ khốn khổ kia. Dường như ba mẹ con Tràng đã tìm thấy được niềm vui ẩn giấu trong sự nương tựa , cưu mang nhau mà sống. Tình vợ chồng, mẹ con sẽ là động lực giúp họ sức mạnh vượt qua cơn hoạn nạn khủng khiếp này. Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điểm sáng mà nhà vawb Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài không mới. Tác phẩm “Vợ nhặt” đã thể hiện thành công nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân – một nhà văn được đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.

PHẦN THAM KHẢO MỞ RỘNG 

Câu 1. Em hãy nêu giá trị nội dung, nghệ thuật của bài Vợ nhặt ( Kim Lân).

Lời giải:

1. Giá trị nội dung

- Giá trị hiện thực:

  • Tình cảnh thê thảm của người nông dân VIệt Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nạn đói năm ấy đã trở thành một thời kì đen tối trong lịch sử của dân tộc ta bởi hơn 2 triệu đồng bào đã bị cướp đi sinh mạng.
  • Đó là hệ quả của những chính sách hà khắc, vô nhân tính của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật: Đằng thì bắt đóng thuế, đằng thì bắt nhổ lúa trồng đay. Dân ta lâm vào cảnh một cổ hai tròng áp bức do sự đê hèn, đốn mạt của thực dân Pháp

- Giá trị nhân đạo

  • Tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít và khẳng định tội ác mà chúng đã gây ra cho mảnh đất, con người Việt Nam
  • Niềm cảm thương, chia sẻ của tác giả trước những đau đớn, mất mát mà người nông dân nghèo đang phải đối mặt. 
  • Ca ngợi sức sống mãnh liệt, khao khát được yêu thương, được sống hạnh phúc với gia đình nhỏ và niềm tin tưởng vào một tương lai tươi sáng đang chờ đợi họ mặc cho cái chết đang đeo đuổi và có thể đến với họ bất cứ lúc nào.
  • Cách mạng chính là con đường đưa họ thoát khỏi cuộc sống khốn cùng này mà đến gần hơn với hi vọng, cuộc sống tốt đẹp với hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong suy nghĩ của Tràng ở cuối truyện.

2. Giá trị nghệ thuật

  • Cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, đầy éo le nhưng nhờ thế mà các nhân vật của Kim Lân xuất hiện mà bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của mình.
  • Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, không kịch tính nhưng sự sắp xếp các chi tiết gây được sự hứng thú, tò mò cho người đọc.
  • Bút pháp miêu tả tâm lí, thế giới nội tâm nhân vật tinh tế
  • Ngôn ngữ gần gũi, giản dị, mộc mạc mang đậm dấu ấn của vùng nông thôn Bắc Bộ - một trong những đặc trưng trong phong cách sáng tác của Kim Lân

Câu hỏi  2. Em hãy nêu nội dung chính của văn bản Vợ nhặt ( Kim Lân).

Lời giải:

Vợ nhặt là tác phẩm kể về thờ kì nạn đói năm 1045. Nhân vật Tràng là người nông dân nghèo, xấu xí, ế vợ lại dở hơi, làm nghề kéo xe bò thuê và nuôi một người mẹ già. Một hôm, chỉ vì một lời trêu đùa lúc làm việc mà Tràng dẫn về nhà một người phụ nữ đang lâm vào hoàn cảnh đói rách cùng đường. Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Sự thay đổi đó xuất phát từ tình yêu thương. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói không bị tha hoá, mất đi bản chất của bản thân. Đồng thời, tác phẩm đã tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít, thể hiện niềm cảm thương sâu săc, chia sẻ của tác giả trước những đau đớn, mất mát mà người nông dân nghèo đang phải đối mặt trong thời Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân.

Câu hỏi 3. Nêu tác giả, tác phẩm, bố cục của văn bản Vợ nhặt ( Kim Lân).

Lời giải:

1. Tác giả

- Kim Lân (1920 – 2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài.

- Quê quán: làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

- Phong cách nghệ thuật: Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn, ông thường viết về nông thôn và những người nông dân của làng quê Việt Nam.

- Sự nghiệp văn học:

  • Năm 1944, Kim Lân tham gia hội văn hóa cứu quốc, sau đó tiếp tục hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến và cách mạng (viết văn, làm báo, diễn kịch, đóng phim).
  • Năm 2001, Kim Lân được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

- Những tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn 1962).

2. Tác phẩm

- Hoàn cảnh sáng tác: Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân được in trong tập Con chó xấu xí (1962). Ban đầu có tên là Xóm ngụ cư nhưng do bị thất lạc bản thảo nên sau khi hòa bình lập lại (1954), tác giả đã dựa vào cốt truyện cũ để viết lại truyện ngắn này.

- Bố cục:

  • Đoạn 1: Từ đầu đến “tự đắc với mình”: Đoạn văn kể lại việc anh Tràng dẫn người “vợ nhặt” về xóm ngụ cư
  • Đoạn 2: Từ “Thị lẳng lặng theo hắn vào nhà” đến “rồi cùng đẩy xe bò về”: Đoạn văn kể lại câu chuyện hai người gặp nhau và cái duyên đưa họ trở thành vợ chồng.
  • Đoạn 3: Từ “Tràng chợt đứng dừng lại” đến “nước mắt chảy dòng dòng”: Tràng giới thiệu người vợ nhặt với mẹ mình. Tâm trạng lo lắng nhưng vui mừng, phấn khởi của bà cụ Tứ trước hạnh phúc cả đời của các con.
  • Đoạn 4: Đoạn còn lại: Những thay đổi tích cực của gia đình anh cu Tràng vào buổi sáng hôm sau. Niềm tin, hy vọng về sự đổi khác trong tương lai.

- Phương thức biểu đạt: Tự sự.

Câu hỏi  4. Phân tích tác phẩm Vợ nhặt ( Kim Lân).

Lời giải:

Kim Lân là một trong những nhà văn viết ít nhưng thành công lớn trong sự nghiệp viết văn. Ông xuất thân trong một gia đình nghèo, vừa đi làm vừa viết văn, sống gần gũi với người nông dân nên những trang viết của ông tái hiện đầy đủ và chân thực nhất hình ảnh người nông dân Việt Nam trước và sau cách mạng. Tuy viết ít nhưng ngòi bút Kim Lân vững vàng. Ông viết bằng cả tâm hồn, tình cảm của một đứa con đẻ của đồng ruộng với niềm trân trọng con người sâu sắc nhất. Vợ nhặt là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy của Kim Lân

Truyện ngắn “Vợ Nhặt” có tiền thân là tiểu thuyết xóm ngụ cư. Đây là cuốn tiểu thuyết mà Kim Lân Viết ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công nhưng còn dang dở sau đó bị mất bản thảo. sau năm 1954, Kim Lân viết lại dựa một phần trên cốt truyện cũ và đặt tên là vợ nhặt. Giá trị lớn nhất của truyện ngắn “Vợ Nhặt” đó là tố cáo xã hội đã đề con người và nạn đói khủng khiếp khiến mạng người bị coi rẻ như cỏ rác. Tác phẩm còn mang giá trị nhân văn sâu sắc là niềm tin của người dân lao động vào sự sống và tương lai, niềm tin và khát khao về tình yêu, hạnh phúc.

Thành công của Kim Lân trong Vợ nhặt là đã xây dựng được một tình huống truyện éo le, độc đáo, đau xót và thấm đẫm tình người. Tình huống ấy éo le, độc đáo ở hình ảnh nhân vật Tràng – nhân vật chính của tác phẩm. Tràng là con nhà nghèo, xấu trai, lại là dân ngụ cư nay đây mai đó bị mọi người khinh bỉ. Anh lấy vợ giữa lúc đói kém cùng cực nhất mà người đó là vợ nhặt. Tình huống trớ trêu ấy khiến cho ta đau xót: sẽ không ai lấy Tràng nếu như không có hoàn cảnh như vậy. Tình huống thấm đẫm tình người: tất cả mọi người đều yêu thương nhau dù nạn đói đang hoành hành dữ dội.

Ở nhân vật Tràng là sự đối lập gay gắt giữa vẻ ngoài xấu xí với tâm hồn cao đẹp bên trong. Tràng xuất thân là con nhà nghèo, lại là dân ngụ cư. Cái thân phận dân ngụ cư đã nói hết cái nghèo khó của hắn rồi. Nghĩ đến tương lai của hắn không có gì là hi vọng. Như bao con người khác, hắn cũng bị lãng quên ngay trong chính cuộc đời này. Thế mà hắn lại còn có một ngoại hình xấu xí và thô kệch. Cái đầu cạo trọc trong gớm gớm. Cái lưng bè to như lưng gấu. Hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều. Hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn. Mỗi khi đi làm về, cái áo nâu tàn vắt sang một bên cánh tay. Dáng đi lù lù, lúc nào cũng chúi về đằng trước. Hình như những lo lắng vật chất trong một ngày đè xuống cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn.

Ngoại hình của Tràng xấu xí, thô kệch nhưng không phải là kiểu biến dạng như nhân vật Chí Phèo. Cuộc sống tự nhiên của hắn đã thế rồi. Hắn chưa bao giờ tự làm thay đổi nó. Hắn lại là người khá vui tính. Người lớn ít nói chuyện với hắn nhưng bọn trẻ con thì bám riết và chơi đùa với hắn mỗi khi hắn đi làm về ngang xóm ngụ cư buồn tẻ. Bên trong cái hình thức xấu xí, đáng sợ ấy lại ẩn chứa một tâm hồn vô tư cao đẹp và giàu lòng yêu thương. Trước tình cảnh đáng thương của người khác, hắn đã rộng lòng cưu mang. Hắn vui vẻ mời người đàn bà xa lạ mà hắn đã gặp những lúc kéo xa thóc lên tỉnh ăn bánh đúc khi thấy thị lờ đờ trong cái đói dù hắn cũng chẳng có gì sung sướng hơn. Câu nói nửa đùa nửa thật của hắn với người đàn bà: “này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng rồi cùng về” có thể xuất phát từ sâu thẳm con tim hắn mà hắn chưa bao giờ dám chạm tới.

Đưa người đàn bà xa lạ về nhà làm vợ là hành động liều lĩnh nhất của tràng. Nói nó liều lĩnh là bởi vì đời hắn đói khát, nay còn thêm một người nữa biết có nuôi nhau nổi không. Cái chết hiện hình ngay trong cuộc sống chứ đâu phải chuyện đùa. Sự liều lĩnh đó hóa ra lại là khát khao hạnh phúc của người đàn ông nghèo khổ. Cứ cho rằng đó là bản năng sống của người đàn ông nhưng nó toát lên vẻ đẹp của sự trưởng thành,chín chắn trong nhận thức và hành động của Tràng. Sự kết hợp của hai số phận đã tạo nên sức mạnh vươn lên của con người. Điều đó thể hiện ngay vào sáng hôm sau. Khi thức giấc, Tràng có cái nhìn thay đổi đối với cái nhà, sân vườn và những người thân yêu xung quanh hắn. Hắn thấy mình nên người, nghĩ đến tương lai, đến sự sinh sôi nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Hắn cũng thấy thương yêu, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Từ đó hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.

Nhân vật Tràng không đẹp về ngoại hình nhưng đẹp về tính tình, đẹp ở tấm lòng, ở tình yêu thương con người. Qua ngòi bút miêu tả, phân tích những diễn biến tâm lí cùng với vốn ngôn ngữ đời thường của nhà văn Kim Lân, nhân vật Tràng hiện lên với đầy đủ những nét đẹp mang chất nhân văn, nhân bản của người nông dân nghèo ở vùng nông thôn Việt Nam trong nạn đói những năm 1945.

Nhân vật bà cụ Tứ cũng được nhà văn dành cho những trang viết vô cùng cảm động. Bà cụ Tứ là một bà mẹ nghèo, lam lũ, từng trải và có tấm lòng nhân hậu. Bà cụ Tứ xuất hiện trong dáng vẻ già nua, dáng đi thì lọng khọng, tiếng ho “húng hắng”, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán. Nhà văn đã thể hiện rất chân thực và sâu sắc diễn biến tâm trạng của bà Tứ khi Tràng đưa người “vợ nhặt” về nhà.

Buổi chiều, khi về đến nhà bà lão vô cùng ngạc nhiên khi thấy có người đàn bà ở trong nhà. Bà tự hỏi: “quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?”. Và bà lại càng ngạc nhiên hơn khi người đàn bà ấy lại chào bà bằng u. Bà sửng sốt: “Sao lại chào mình bằng u? không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?”. Ngay cả khi Tràng nhắc bà “kìa nhà tôi nó chào u” thì bà vẫn chưa hiểu bởi bà không ngờ rằng có người chấp nhận lấy con mình và cũng không ngờ rằng con bà lại dám lấy vợ vào lúc đói kém nhất này. Bao nhiêu câu hỏi là bấy nhiêu sự ngạc nhiên đối với bà. Đến khi hiểu ra cơ sự, trong lòng người mẹ nghèo ấy ngổn ngang bao nỗi niềm. Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Trong lòng bà lão trào dâng sự buồn tủi “chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi những mong sinh con đẻ cái sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Nhưng khi nhìn người đàn bà tiều tụy vì đói bà hiểu vì sao mà người ta chấp nhận theo không con mình. Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được.

Bà lão thực sự cảm thấy tủi hờn là buồn bởi bà là mẹ mà không lo nổi hạnh phúc cả đời cho con mình. Bà tự an ủi mình: “thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con… may ra qua cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm thế nào mà lo cho hết được?”. Là một người mẹ từng trải qua nên bà cảm thấy lo lắng cho hạnh phúc của con. Bởi chúng lấy nhau trong lúc đói kém này biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói khát này không. Nhưng rồi tấm lòng nhân hậu của bà cũng rộng mở để đoán nhận người con dâu không cưới hỏi ấy. Mở lời bà động viên, không giấu nổi niềm vui của mình: “ừ, thôi hai đứa phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”. Bà lão mừng, vui vì con mình có được vợ. Nhưng niềm vui ấy của bà đã bị những lo lắng ghì chặt xuống khiến bà “nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy ròng ròng”.

Trong cái bức tranh ảm đạm, đen tối ấy có lẽ bà cụ Tứ chính là điểm sáng tươi đẹp bởi chính bà lão lại là người vẽ ra viễn cảnh cho cuộc sống tươi sáng sau này. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa, bà nói với hai con toàn những chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Tình cảm của bà cụ Tứ đối với con không phải là tình mẫu tử sâu nặng mà còn thể hiện đạo lí tốt đẹp của con người, đó là sự cưu mang che chở lẫn nhau của những con người cùng cảnh ngộ.

Dù Kim Lân không dành cho nhân vật “người vợ nhặt” nhiều trang viết nhưng chính “thị” là hiện thân cho sự khốc liệt của cái đói. Hình ảnh “thị” hiện lên xót xa đến tội nghiệp, thị thậm chí không có lấy một cái tên, thân hình tiều tụy rách rưới. Chính cái đói đã khiến cho thân hình của thị bị tàn phá một cách ghê gớm khiến cho Tràng trong lần thứ hai gặp lại “thị” Tràng cũng không nhận ra. Cái đói, cái khát, cái tuyệt vọng khiến cho thị “hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy xọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Cũng chỉ vì cái đói, vì miếng ăn mà thị mất đi cả nữ tính. Thị trơ trẽn đến mức đòi hỏi để được ăn. và khi được ăn thì “thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc chẳng trò chuyện gì”. Và chỉ bằng một câu nói vu vơ nửa đùa nửa thật của Tràng mà thị đã mạnh dạn chấp nhận theo không người khác cũng chỉ vì cái đói.

Tuy nhiên bản chất của thị cũng không phải là người xấu và điều đó đã chứng minh khi thị theo Tràng về làm vợ. Hình ảnh một người đàn bà cong cớn, trơ trẽn lúc ban đầu đã được thay thế bằng một con người khác hẳn. Thị trở nên rón rén, e thẹn và có vẻ ngượng nghịu. Đáng chú ý nhất là hình ảnh “thị” trong buổi sáng đầu tiên ở nhà Tràng, “thị” đã hoàn toàn trở thành một con người khác. Tràng nhận ra “nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gỉ chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Phải chăng chính tình thương yêu giữa con người với con người đã cảm hóa “thị”, đã làm thay đổi hoàn toàn con người “thị”.

Tình người thấm đẫm qua bữa sáng nghèo khó. Để đón mừng con dâu mới, buổi sáng hôm sau, bà lão đã dậy thật sớm chuẩn bị bữa ăn sáng thịnh soạn. Đến khi Tràng đã trở dậy, bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh cái mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy, vừa cười khoe món chè khoán “ngoan đáo để”. Nhìn bát cháo cám, ai cũng ngậm ngùi. Cái hạnh phúc nhỏ nhoi ngay lập tức đứng trước nhũng đe dọa khủng khiếp của cuộc sống nghèo khó ấy. Ai cũng thấu hiểu và thầm động viên nhau vượt qua.

Với nồi cháo cám, bà cụ Tứ vừa mừng đón dâu mới, vừa cố tạo niềm vui dù là mỏng manh cho hai con. bà không ngừng tạo động lực, cổ động, thúc giục chúng vươn lên. Đời bà đã khổ, bà chẳng sợ, chúng còn trẻ thì sợ gì khổ chứ. Bà vẫn tin khổ tận cam lai. Rồi một ngày nào đó cái khổ sẽ qua đi, đây chính là cơ hội để chúng có một gia đình đúng nghĩa. Hi vọng và niềm tin của người nông dân về cuộc sống trong hoàn cảnh cơ cực, bi đát nhất vẫn nồng ấm. Họ cần đứng tựa vào nhau để sống, để đi tiếp cho đến hết cuộc đời.

Chi tiết bát chè khoán là một hình ảnh đặc sắc phơi bày tình cảnh vô cùng thảm hại của người dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nó còn thể hiện tấm lòng thương người, thương con, đôn hậu của người mẹ già nghèo khổ. Chi tiết độc đáo thấm đượm giá trị nhân đạo cao cả và chứa đựng giá trị hiện thực sâu sắc trong tác phẩm.

Thông qua việc Tràng có vợ giữa những ngày đói khủng khiếp và những nét tâm lí trái ngược ở các nhân vật, nhà văn Kim Lân đã có thấy thảm cảnh hết sức thê thảm của những con người nghèo khổ trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu đã cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu đồng bào ta.

Kim Lân chẳng cố công đi tìm sức mạnh đấu tranh ở đâu cả. Ông nhẹ nhàng đi vào đời sống bình thường nhưng chan chứa tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của người nông dân để phát hiện, trân trọng và ca ngợi. Bởi thế, ông không đi theo bề rộng mà đi theo bề sâu của nghệ thuật. Nghệ thuật xuất phát từ cuộc sống và quay trở lại phục vụ cho cuộc sống ấy. Với truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân xứng đáng là một trong những nhà văn xuất sắc nhất viết về đề tài người nông dan Việt Nam trước cách mạng.

Vợ nhặt là bài ca ca ngợi sự sống. Trong lúc nạn đói diễn ra, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào nhưng những con người nghèo khổ vẫn không mất đi tình thương, sự cưu mang đùm bọc, vẫn không mất đi khát vọng hạnh phúc. Những con người nghèo khổ họ biết dựa và nhau để hướng tới một tương lai tươi sáng hơn. Tác phẩm còn chỉ ra con đường giải phóng cho những con người nghèo khổ: Chỉ có thể đi theo cách mạng để tự giải phóng, để thoát khỏi đói nghèo cơ cực. Chính vì lẽ đó tác phẩm “Vợ nhặt” còn mang một giá trị nhân đạo mới.

Từ khóa tìm kiếm google:

Giải ngữ văn 11 kết nối tri thức Bài 1 Vợ nhặt ( Kim Lân), giải ngữ văn 11 sách kết nối tri thức Bài 1 Vợ nhặt ( Kim Lân), giải Bài 1 Vợ nhặt ( Kim Lân) ngữ văn 11
Phần trên, hocthoi.net đã soạn đầy đủ lý thuyết và bài tập của bài học: Giải Ngữ văn 11 tập 1 sách KNTT Bài 1 Vợ nhặt ( Kim Lân) . Bài học nằm trong chuyên mục: Giải ngữ văn 11 tập 1 kết nối tri thức. Phần trình bày do Ngọc Diễm tổng hợp và thực hiện giải bài. Nếu có chỗ nào chưa rõ, có phần nào muốn hiểu rộng thêm, bạn đọc vui lòng comment bên dưới. Ban biên tập sẽ giải đáp giúp các bạn trong thời gian sớm nhất.

Bài soạn các môn khác

Bình luận