Danh mục bài soạn

Giải Ngữ văn 11 tập 1 sách KNTT Bài 1 Chí Phèo (Nam Cao)

Hướng dẫn học môn Ngữ văn 11 tập 1 sách mới Kết nối tri thức. Dưới đây là lời giải chi tiết Bài 1 Chí Phèo (Nam Cao). Từng bài tập được giải chi tiết, rõ ràng, dễ hiểu. Hi vọng, hocthoi.net sẽ hỗ trợ các em trong quá trình học tập, giúp các em ngày càng tiến bộ hơn.

TRƯỚC KHI ĐỌC 

Câu hỏi 1. Thế nào là định kiến xã hội? Các định kiến xã hội có thể ảnh hưởng đến cá nhân và cộng đồng như thế nào?

Lời giải:

Định kiến ​​xã hội là những ý kiến, quan điểm đã được hình thành trước trong suy nghĩ con người. Mang đến các đánh giá chủ quan về hiện tượng, sự vật hay con người. Định kiến đó được xây dựng trước khi con người nhận thức được các dữ kiện có liên quan hoặc biết rõ những thông tin liên quan của một sự kiện cụ thể. Từ đó dẫn đến các đánh giá không chính xác, không dựa trên căn cứ xác đáng.

Định kiến xã hội chính là cách nhìn nhận cứng nhắc, bảo thủ về bản chất của những con người, loại người, tầng lớp người cụ thể trong đời sống một cộng đồng. Ấn tượng không tốt về một người, một loại người tại một thời điểm đã duy trì lâu dài trong ý thức của các thành viên cộng đồng. Định kiến cũng là sự phát huy thái quá của dư luận xã hội.

Các định kiến xã hội sẽ ảnh hưởng: mang đến cảm giác tiêu cực, trong xã hội, nếu chỉ đánh giá người khác thông qua định kiến, như định kiến về hình xăm thì hệ quả đầu tiên mà chúng ta đánh giá không đúng về họ, từ đó sẽ dẫn đến những hành xử hoặc quyết định sai lầm, gây nên những tổn hại đến lợi ích vật chất cũng như tinh thần của người khác, của chính mình và cũng có thể của tất cả mọi người xung quanh. Người bị hiểu nhầm nặng nề thì bị ức chế tâm lý và dần thui chột tài năng… Còn đối với người đánh giá sai về người khác cũng không thể nào giao tiếp tốt với những người khác được nữa, từ đó các mối quan hệ xã hội sẽ dần có nguy cơ bị rạn nứt hoặc đổ vỡ không thể cứu vãn.

Câu hỏi 2. Có thể bạn đã từng nghe thấy người ta gọi tính cách hay cách ứng xử của một ai đó là "Chí Phèo". Cách gọi ấy đã hàm ẩn sự đánh giá như thế nào đối với tính cách hay cách ứng xử này?

Lời giải:

  • Em đã từng nghe người thân nhắc đến từ “Chí Phèo” để chỉ cách cư xử của người khác. Những người bị nói như vậy thường là những người hay nghiện rượu, say xỉn, không chịu khó làm ăn, bòn rút tiền của của vợ con, không phải một người tử tế, thích đánh lộn. Vì vậy, em có thể khẳng định cách nói như vậy để chỉ những người không tốt đẹp, nghiện rượu, không làm ăn và gây đau khổ cho người khác. 

ĐỌC VĂN BẢN

Câu hỏi 1. Chú ý sự luân phiên của các điểm nhìn (điểm nhìn của người kể chuyện và nhân vật, điểm nhìn bên ngoài và bên trong).

Lời giải:

Điểm nhìn trần thuật: ngoi kể thứ ba theo điểm nhìn bên trong. Nhân vật mang điểm nhìn bên trong thường là nhân vật chính trong truyện (Chí Phèo).

Điểm nhìn được thay đổi từ điểm nhìn bên ngoài đến điểm nhìn bên trong, từ điểm nhìn không gian đến điểm nhìn thời gian, từ điểm nhìn một người đến điểm nhìn của số đông, có khi điểm nhìn trao cho nhân vật này, lúc thì trao cho nhân vật khác, nghĩa là toàn truyện có một sự di chuyển điểm nhìn liên tục. Nhân vật thì được đặt trong trung tâm của các điểm nhìn. Với nhân vật Chí Phèo, mở đầu truyện ngắn là cái nhìn trần thuật của người kể chuyện. Sau đó, với hình thức lời nửa trực tiếp, điểm nhìn của chủ thể trần thuật lại hóa thân vào điểm nhìn của Chí Phèo: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng người nào? Rồi hẳn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai… Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Tức thật! Ồ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”. Trong “Chí Phèo”, xuất hiện dày đặc kiểu lời nói nửa trực tiếp như thế. Hình thức này cho phép chủ thể trần thuật di chuyển điểm nhìn rất linh hoạt, đồng thời với kiểu độc thoại nội tâm, chủ thể trần thuật có điều kiện soi chiếu vào những mảng tâm trạng sâu kín nhất của nhân vật.

Câu hỏi 2. Vì sao Chí Phèo lại khiến dân làng Vũ Đại e sợ khi hắn mới từ nhà tù trở về làng?

Lời giải:

  • Bởi do dáng vẻ bên ngoài của hắn, cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, có hai cánh tay cũng thế. 

Câu hỏi 3. Người kể chuyện có hoàn toàn miêu tả cảnh Chí Phèo gây sự với người nhà Bá Kiến chỉ từ điểm nhìn của mình?

Lời giải:

  • Khi hắn say khướt, xách một cái vỏ chai đến cổng nhà bá Kiến, gọi tận tên tục ra mà chửi. Cụ bá không có nhà. Thấy bộ điệu hung hăng của hắn, bà cả đùn bà hai, bà hai thúc bà ba, bà ba gọi bà tư, cuối cùng không ai ra.....

Câu hỏi 4. Chú ý những chi tiết miêu tả cách "ứng phó" của Bá kiến đối với Chí Phèo và người nhà của mình.

Lời giải:

Bá Kiến đối với Chí Phèo: xưng "anh".

Bá Kiến với người nhà của mình: quát mắng và đuổi vào trong nhà. 

Câu hỏi 5. Những cảm giác, ấn tượng gì đánh dấu thời điểm bắt đầu diễn ra sự thay đổi bên trong con người Chí Phèo?

Lời giải:

Chí Phèo cảm nhận được sự sống của thiên nhiên: mặt trời bên ngoài nắng rực rỡ, nghe thấy chim ríu rít bên ngoài, tiếng cười nói của những người đi chợ, .... cảm nhận được những niềm vui xung quanh. 

Câu hỏi 6. Điều gì ám ảnh Chí Phèo nhất khi nghĩ về cuộc đời của mình?

Lời giải:

Hắn dường như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, cô độc là điều đáng sợ nhất.

Câu hỏi 7. Lòng trắc ẩn của thị Nở dành cho Chí Phèo được thể hiện qua ý nghĩa và hành động nào?

Lời giải:

  • Lòng trắc ẩn của thị Nở dành cho Chí Phèo được thể hiện qua: nấu cháo hành, chăm sóc khi hắn bị ốm. 

Câu hỏi 8. Người kể chuyện đặt điểm nhìn ở đâu khi miêu tả những cảm xúc của Chí Phèo lúc đón nhận bất cháo hành của thị Nở?

Lời giải:

  • Người kể chuyện đã đặt điểm nhìn trần thuật và nhân vật để miêu tả những cảm xúc của Chí Phèo lúc đón nhận bất cháo hành của thị Nở.

Câu hỏi 9. Lời kể và điểm nhìn của người kể chuyện thể hiện thái độ như thế nào đối với Chí Phèo?

Lời giải:

  • Lời kể và điểm nhìn của người kể chuyện thể hiện thái độ nhân đạo nhằm thức tỉnh con người hắn. 

Câu hỏi 10. Lí do bà cô thị Nở dứt khoát không cho cháu mình đến với Chí Phèo có thỏa đáng không?

Lời giải:

  • Bà ta đã không thể mở lòng, không thể suy nghĩ một cách tích cực rằng Chí Phèo sẽ thay đổi và Thị Nở ít ra cũng hơn bà có được hạnh phúc, bởi lý trí của bà ta bị che mờ bởi sự ích kỷ, bởi những định kiến cay nghiệt mà người đời gán cho Chí Phèo. 

Câu hỏi 11. Tại sao tâm trí của Chí Phèo lúc này lại bị ám ảnh bởi hơi cháo hành?

Lời giải:
Bởi đó là hương vị tình người đầu tiên của một người dành cho hắn.  Sau năm ngày ở với Chí Phèo, Thị Nở “bỗng nhớ ra mình còn một bà cô trên đời” và quyết định “dừng yêu” để xin ý kiến bà cô. Thị bị bà cô xỉa xói vào mặt và khi quay lại nhà Chí Phèo, Thị chửi Chí bằng tất cả những lời của bà cô và vùng vằng quay về. Chí “ngẩn người ra” và chạy vội ra níu tay Thị nhưng bị Thị dúi cho một cái rồi bỏ về. Chí rơi xuống hố sâu của tuyệt vọng. Thị Nở đã phụ bạc hắn, hắn không còn cơ hội để quay về với cuộc sống lương thiện. Tuyệt vọng, hắn uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh và thoang thoảng cứ thấy “hơi cháo hành”. Đó là biến thể của “bát cháo hành”. Hắn không say, vị ngọt tình người cứ thoang thoảng để hắn đau khổ “khóc rưng rức”. 

Câu hỏi 12. Việc Chí Phèo tìm đến nhà bá Kiến có phải hoàn toàn do hắn đã say như nhận xét trước đó của người kể chuyện không?

Lời giải:

Cũng có say nhưng không hoàn toàn. 

Câu hỏi 13. Đây có phải là những lời của một kẻ say không?

Lời giải:
"Tao muốn làm người lương thiện". Đó là câu nói thành thực nhất, tiếng đầu tiên và cũng là lời cuối cùng trong cuộc đời đã bị tha hóa một cách khủng khiếp của Chí Phèo. Khi hắn say nhất cũng là lúc hắn tỉnh nhất, là lúc còn kịp nhận ra nghĩa lí của cuộc sống chính là ở hai chữ "lương thiện" kia, để rồi điều đó bỗng trở thành khát vọng của hắn sau bao ngày vật vã với rượu và những lời chửi bới "tao muốn", lần đầu tiên cái mong muốn của Chí Phèo không phải là dăm đồng bạc lẻ của cụ Bá, không phải dăm cút rượu hay một ít đồ nhắm, những nhu cầu vật chất mà là một mong muốn có tính trừu tượng, sự lương thiện.

Câu hỏi 14. Người kể chuyện có đưa ra lời bình luận hay đánh giá nào của mình về sự việc xảy ra ở làng Vũ Đại không?

Lời giải:
Người kể chuyện không đưa ra lời bình luận trực tiếp nào cho sự việc xảy ra ở làng Vũ Đại mà tác giả thể hiện sự đánh giá của mình qua lời nói của người dân làng Vũ Đại, có người mừng thầm, có người mừng ra mặt, có người ngờ vực… họ đều cho rằng hai thằng đấy chết là xứng đáng bởi cả hai đều chẳng phải người tốt đẹp gì. Qua đó, người kể chuyện thể hiện góc nhìn đa chiều của mình, không nghiêng về bất cứ bên nào.

Câu hỏi 15. Ý nghĩa của hình ảnh cái lò gạch cũ là gì?

Lời giải:

Hình ảnh cái lò gạch cũ xuất hiện ở đầu tác phẩm: “Một anh đi thả ống lươn nhặt được một đứa trẻ trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không…” và xuất hiện ở cuối tác phẩm: Thị Nở nhớ lại những lúc ăn nằm với Chí Phèo, Thị nhìn nhanh xuống bụng và “đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại…”.

=> Kết cấu đầu cuối tương ứng: mở đầu là sự xuất hiện của cái lò gạch, kết thúc cũng bằng hình ảnh cái lò gạch.

=> Hình ảnh ẩn dụ cho vòng luẩn quẩn của những kiếp người như Chí Phèo. Qua đó tác giả muốn khẳng định: Chí Phèo không phải là một hiện tượng cá biệt mà là một hiện tượng phổ biến có tính quy luật trong xã hội bấy giờ.

SAU KHI ĐỌC 

Câu hỏi 1. Tóm tắt cốt truyện Chí Phèo theo trình tự thời gian cuộc đời nhân vật. Hãy đánh giá hiệu quả của việc phá vỡ trình tự này trong mạch trần thuật của tác phẩm.

Lời giải:

- Tóm tắt cốt truyện Chí Phèo: Chí Phèo là đứa trẻ bị bỏ rơi, được người dân làng Vũ Đại cưu mang, đến năm 18 tuổi, hắn đi làm thuê cho nhà bá Kiến. Vì vợ bá Kiến thường gọi Chí Phèo vào xoa bóp, bá Kiến ghen, đổ tội rồi bắt Chí Phèo đi tù. Bi kịch của Chí Phèo bắt đầu từ đây. Hắn ra tù, trở về làng với một con người hoàn toàn khác và trở thành con quỷ của làng Vũ Đại. Hắn đến nhà bá Kiến ăn vạ với kẻ đã cho hắn vào tù. Bá Kiến xoa dịu hắn và biến hắn trở thành tay sai cho mình. Chí Phèo gặp gỡ và yêu thị Nở, con đường hoàn lương của hắn mở ra. Nhưng rồi vì bà cô can ngăn, thị Nở đòi chia tay hắn, đồng nghĩa với việc dập tắt hy vọng trong Chí Phèo. Chẳng còn ai trên đời này quan tâm đến mình, hắn muốn đến tìm kẻ đầu sỏ của mọi chuyện là bá Kiến. Hắn giết bá Kiến và cũng tự kết liễu đời mình. Thị Nở thấy vậy liền nghĩ về cái lò gạch – nơi Chí Phèo được người ta tìm thấy mang về nuôi. 

- Đánh giá hiệu quả của việc phá vỡ trình tự này trong mạch trần thuật của tác phẩm: việc phá vỡ trình tự này trong mạch trần thuật nhằm nhấn mạnh 2 diễn biến lớn trong cuộc đời của Chí Phèo đó là làm con quỷ làng Vũ Đại và quá trình hoàn lương muốn trở lại làm người bình thường của Chí Phèo. Từ đó, tác giả muốn khẳng định dù trong bất cứ hoàn cảnh cảnh nào, con người vẫn luôn giữ được bản tính lương thiện vốn có và ông luôn đặt niềm tin vào nhân cách của con người. 

Câu hỏi 2. Phân loại điểm nhìn trần thuật trong đoạn mở đầu theo các bình diện: điểm nhìn của người kể chuyện/ điểm nhìn của nhân vật (Chí Phèo, dân làng Vũ Đại); điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong. Nhận xét về tương quan và sự dịch chuyển giữa các điểm nhìn này, qua đó, chỉ ra những nét đặc sắc trong cách Nam Cao mở đầu câu chuyện.

Lời giải:

* Phân loại điểm nhìn trần thuật trong đoạn mở đầu theo các bình diện: điểm nhìn của người kể chuyện/ điểm nhìn của nhân vật (Chí Phèo, dân làng Vũ Đại); điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong:

- Điểm nhìn bên ngoài (điểm nhìn kể chuyện): được hiểu là lời kể của tác giả với vai trò là người chứng kiến, hiểu rõ toàn bộ câu chuyện dưới cái nhìn trực diện, khách quan, diễn tả sự việc diễn ra một cách chân thực, giúp người đọc hiểu được diễn biến của câu chuyện.

- Điểm nhìn bên trong (điểm nhìn của nhân vật): tác giả đóng vai thành các nhân vật trong truyện, đưa ra quan điểm, phán xét của mình về mỗi sự việc trong truyện qua những câu cảm thán, những lời bàn tán, bình phẩm. Từ đó làm nổi bật lên góc nhìn đa chiều, đa dạng bởi đan xen những cung bậc cảm xúc khác nhau của những người trong cuộc và giúp người đọc hiểu hơn về tuyến tính của mỗi nhân vật. 

* Nhận xét về tương quan và sự dịch chuyển giữa các điểm nhìn này

Tác giả sử dụng lối kể chuyện rất độc đáo bằng việc dịch chuyển linh hoạt giữa các điểm nhìn, từ người kể chuyện chuyển sang lời kể của nhân vật một cách độc đáo, tài tình.  Với nhân vật Chí Phèo, mở đầu truyện ngắn là cái nhìn trần thuật của người kể chuyện. Sau đó, với hình thức lời nửa trực tiếp, điểm nhìn của chủ thể trần thuật lại hóa thân vào điểm nhìn của Chí Phèo: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi…” Trong phần đầu của “Chí Phèo” cũng xuất hiện dày đặc kiểu lời nói nửa trực tiếp như thế. Hình thức này cho phép chủ thể trần thuật di chuyển điểm nhìn rất linh hoạt, đồng thời với kiểu độc thoại nội tâm, chủ thể trần thuật có điều kiện soi chiếu vào những mảng tâm trạng sâu kín nhất của nhân vật. Để từ đó, giúp người đọc hiểu rõ hơn về từng nhân vật trong tác phẩm. 

Câu hỏi 3. Phân tích diễn biến tâm trạng của Chí Phèo vào buổi sáng sau cuộc gặp gỡ với thị Nở đêm trước. Theo bạn, nhân tố nào mang tính quyết định đối với quá trình hồi sinh nhân tính của nhân vật? Vì sao?

Lời giải:

Bài tham khảo 1: 

Tỉnh dậy sau đêm say sưa gặp Thị Nở, điều đầu tiên Nam Cao để cho Chí nhận ra ấy là thực tại của bản thân mình. Hắn sống trong một túp lều, túp lều mà hắn đã phải đánh đổi bằng máu, bằng lương tri, làm tay sai cho bá Kiến mà có được. Một túp lều ẩm thấp, tối tăm: “Ở đây người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng”. Đây không phải nơi ở của con người, nó là địa ngục trần gian mà Chí đang chết dần chết mòn trong đó. Vậy mà chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi Chí Phèo chưa bao giờ hết say. Đây là lần đâu tiên Chí nhận ra cái hiện thực cay đắng phũ phàng ấy. Hắn bắt đầu cảm nhận được cuộc sống xung quanh mình và có những cảm xúc của một con người. Lần đầu tiên từ khi ra tù, Chí Phèo tỉnh rượu và có cái cảm giác “miệng đắng, lòng mơ hồ buồn”. Lần đầu tiên, Chí Phèo nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống hằng ngày xung quanh hắn : “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá”, “tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”, tiếng trò chuyện của những người đi chợ về…Những âm thanh ấy đã gợi nhớ trong hắn ước mơ giản dị từ thuở xa xưa : “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Quá khứ tuy nghèo khổ ấy nay với Chí cũng là một điều thật xa vời. Thực tại giờ đây của hắn là “già mà vẫn còn cô độc”. Điều ấy khiến hắn buồn và lo lắng cho tương lai : đói rét, ốm đau và cô độc sẽ đày đọa hắn khi về già. Và hắn sợ nhất là cô độc. Một kẻ chỉ biết sống bằng giật cướp và dọa nạt, một kẻ đã làm đổ máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện, vậy mà giờ đây cũng biết sợ, mà lại sợ nhất là cô độc. Hình như, bản chất người trong hắn đang mơ hồ tỉnh dậy.

Và khi Chí đang nhìn về tương lai đen tối kia với tâm trạng cô độc, sợ hãi, cũng may là Thị Nở đến nếu không thì Chí khóc mất. Thị Nở bước vào cùng với bát cháo hành, một hình tượng đẹp nhất, một chi tiết nghệ thuật đem đến nhiều mĩ cảm. Chí Phèo ngạc nhiên, hết ngạc nhiên thì mắt Chí ươn ướt. Có lẽ vì đây là lần đầu tiên Chí được một người đàn bà cho ăn, bởi vì xưa nay Chí vẫn phải “dọa nạt hay giật cướp” của người khác thì mới có được. Bát cháo hành ấy là đại diện cho tình cảm mộc mạc của Thị Nở dành cho Chí, đánh thức trọn vẹn trong Chí lương tri và lương tâm của một con người. Bát cháo hành chan chứa tình người, thứ tình cảm rất thật, hồn nhiên, không vụ lợi. Nó chỉ đơn giản là bởi Thị thấy Chí bị “thổ một trận nhọc” mà không có người chăm sóc, bởi Thị nghỉ ốm như thế thì chỉ có ăn cháo hành. Và rất hồn nhiên Thị nấu cháo hành mang sang.

Chi tiết hồi sinh nhân tính: bát cháo hành ấy là vị thuốc giải độc cho cuộc đời Chí. Không chỉ giải cảm, bát cháo hành là tình người duy nhất đã gợi thức phần lương tri ngủ quên trong lốt “con quỷ dữ Chí Phèo”. Từ ăn năn, hối hận, Chí bỗng thấy thèm lương thiện, thèm trở về cuộc sống ngày trước. Bát cháo hành đã dẫn đường cho hi vọng hoàn lương: Thị Nở có thể làm hòa với hắn thì mọi người cũng có thể làm hòa với hắn. Khát khao lương thiện bùng dậy mãnh liệt đã khiến Chí dồn hết hi vọng vào Thị Nở – về cây cầu đưa hắn về với cuộc đời lương thiện. Bát cháo hành đã hoàn thành thiên chức gọi chất người, khơi hòn than đỏ vùi trong lớp tro tàn đang âm ỉ, nó đưa Chí qua một cuộc lột xác để về với sự lương thiện. Lúc này, Chí Phèo đã hoàn toàn thức tỉnh, hắn từ "con quỷ dữ" trở lại là người: "Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người". Mà đã là người, ai chẳng mưu cầu hạnh phúc? Hắn làm nũng với Thị Nở như đứa trẻ con làm nũng mẹ. Hắn ao ước một mái ấm gia đình, hắn thực sự mong muốn xây dựng gia đình với Thị Nở: "Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?" Chí Phèo và Thị Nở, hai mảnh đời bất hạnh gặp nhau rồi yêu nhau. Họ mở ra con đường giải thoát cho nhau, "làm ơn" và "chịu ơn" lẫn nhau. Họ sống với nhau như vợ chồng.

Bài tham khảo 2: 

- Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo vào buổi sáng sau cuộc gặp gỡ với thị Nở đêm trước

+ Hắn nghe thấy tiếng chim ríu rít bên ngoài

+ Hắn nhận ra cái lều ẩm thấp vẫn mới chỉ hơi lờ mở. Chưa bao giờ hắn nhận thấy thế bởi chưa bao giờ hết say.

+ Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài.

+ Nghĩ đến rượu hắn thấy hơi rùng mình

+ Hắn nghe thấy tiếng chim hót ngoài kia vui quá. Nghe thấy tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng gõ mái chèo… Chao ôi là buồn!

+ Hắn nghĩ về ao ước của mình trước kia, từng mong muốn có một gia đình nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải… 

+ Rồi hắn lại thấy mình già rồi mà vẫn cô độc, tự thấy buồn cho đời…

→ Từ một tên nát rượu, Chí Phèo dần tìm lại được chính mình trong ngọn lửa tình yêu nhen nhóm. Hắn nhận thấy cuộc sống xung quanh thật tươi đẹp, cái mà dường như rất lâu rồi hắn chưa hề được cảm nhận. Hắn nghĩ ngợi về cuộc đời, về tương lai rồi lại thấy buồn cho đời mình đã bỏ lỡ, phí hoài bao nhiêu thứ. Suy nghĩ này đã đánh dấu quá trình hoàn lương của Chí Phèo đang thực sự diễn ra, hắn thật sự đang quay trở lại làm người.

- Theo em, nhân tố nào mang tính quyết định đối với quá trình hồi sinh nhân tính của nhân vật chính là tình cảm của thị Nở dành cho hắn. Chính sự quan tâm của thị mà tiêu biểu là hình ảnh bát cháo hành giản dị đã thúc đẩy quá trình hồi sinh nhân tính bên trong con người Chí Phèo. Tình cảm con người đã cảm hóa một con người khác, sự quan tâm chưa từng được cảm nhận hóa ra lại hạnh phúc, tuyệt vời đến thế. Vì vậy, hắn càng cảm thấy trân trọng, thấy mình cần phải làm gì để đáp lại tình cảm đó bởi hắn muốn níu giữ tình cảm này và muốn nó phát triển nó, tạo dựng một hạnh phúc hoàn chỉnh.

Câu hỏi 4. Phân tích phản ứng tâm lí và hành động của Chí Phèo sau khi bị thị Nở từ chối chung sống. Người kể chuyện có đưa ra những phán đoán đáng tin cậy để người đọc hiểu được tâm lí và hành động của nhân vật không?

Lời giải:

- Phản ứng tâm lý và hành động của Chí Phèo sau khi bị thị Nở từ chối chung sống

+ Hắn đang chìm đắm trong tình yêu, nghĩ về một tương lai tươi sáng cho cả hai và tự thấy vui trong mình.

+ Thị Nở đột nhiên đến, chửi vào mặt hắn, hắn nghĩ ngợi một tí rồi hình như hiểu ra. Hắn bỗng ngẩn người → cảm giác hụt hẫng khi bị từ chối

+ Thoáng một cái, hắn lại như hít thấy hơi cháo hành 

+ Thị bỏ về, hắn sửng sốt, đứng lên gọi lại. Hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay. Thị gạt ra, lại giúi thêm cho một cái. Hắn lăn khoèo xuống sân. 

→ Hắn muốn níu kéo, muốn giữ lại niềm hạnh phúc mới được nhen nhóm của mình. 

+ Hắn nhặt một hòn đá, toan đập đầu. Hắn nghĩ: đập đầu ở đây chỉ thiệt; đập đầu ở đây, để mà nằm ăn vạ ai?...

+ Hắn muốn đến đâm chết con khọm già nhà nó… Muốn đập đầu, phải uống thật say, uống thêm chai nữa. Và hắn uống. Nhưng càng uống càng tỉnh ra. Hắn vậy mà cứ thẳng lối đến nhà bá Kiến. 

→ Dường như Chí Phèo đã tỉnh táo, hắn tự ý thức được bản thân muốn ăn vạ phải đến nhà chính chủ. Nhưng rồi dường như hắn hiểu được nguồn cơn, ai mới chính là nguyên nhân chính của chuyện này, phải, là bá Kiến – kẻ đã biến hắn từ một người lương thiện thành con quỷ của làng Vũ Đại. Với suy nghĩ ấy, hắn đã đến thẳng nhà bá Kiến để đòi lại công đạo cho chính bản thân mình. 

 - Người kể chuyện có đưa ra những phán đoán đáng tin cậy để người đọc hiểu được tâm lí và hành động của nhân vật bởi theo mạch suy nghĩ của Chí Phèo, ta có thể hiểu hắn đã tỉnh táo và hiểu ra mọi chuyện. Hắn biết nguồn cơn của mọi chuyện đến từ ai và phải đi tìm kẻ đầu sỏ đó. 

Câu hỏi 5. Người kể chuyện bộc lộ thái độ như thể nào đối với Chí Phèo và thị Nở qua hệ thống điểm nhìn và lời kể?

Lời giải:
Người kể không hề bộc lộ thái độ khinh miệt hay kì thị đối với Chí Phèo và thị Nở dù cả hai đều không phải là người hoàn hảo. Người kể chuyện đã đặt mình và vị trí của nhân vật, nói lên tâm tư, nguyện vọng của họ. Chí Phèo thì muốn quay lại làm người lương thiện, muốn có cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Thị Nở thì khát khao hạnh phúc dù xấu xí và đã quá tuổi lấy chồng. Tất cả đều thể hiện sự tôn trọng đối với mỗi nhân vật qua lăng kính khách quan, những đánh giá chân thực của tác giả để từ đó lột tả được hết những tính cách tốt đẹp của hai nhân vật này. 

Câu hỏi 6. Nhận xét về điểm nhìn và giọng điệu trần thuật ở đoạn kết của truyện ngắn khi Chí Phèo tìm đến nhà bá Kiến lần cuối và phán ứng của dân làng Vũ Đại về cái chết của hai nhân vật này. Theo bạn, cái chết của Chí Phèo có ý nghĩa như thế nào?

Lời giải:

* Nhận xét về điểm nhìn và giọng điệu trần thuật ở đoạn kết

- Điểm nhìn: từ vai trò là một người kể chuyện, chứng kiến toàn bộ câu chuyện diễn ra, hiểu rõ diễn biến, tâm lý của mỗi nhân vật, tác giả chuyển mình thành giọng điệu của người dân làng Vũ Đại, bàn tán xôn xao về vụ việc vừa qua với những sắc thái, cung bậc cảm xúc khác nhau.

- Giọng điệu trần thuật gần gũi, dễ hiểu, thể hiện rõ sự thay đổi trong tâm sinh lý của Chí Phèo từ con quỷ làng Vũ Đại muốn trở lại làm người bình thường, kiếm tìm hạnh phúc.

* Ý nghĩa cái chết của Chí Phèo

Cái chết của Chí Phèo là biểu hiện cao nhất, đánh dấu sự trở lại mạnh mẽ của tính người với bản tính lương thiện. Đây là một hành động dứt khoát, quyết liệt chống lại cái cái tiêu cực để bảo vệ phần người vừa tìm lại được của hắn, chống lại sự ăn mòn về nhân cách. Cái chết đó là minh chứng cho khát khao quay về làm người lương thiện đang hiện diện bên trong con người của Chí Phèo. 

Câu hỏi 7. So sánh và nhận xét về đoạn kết của hai truyện ngắn Chí Phèo (Nam Cao) và Vợ nhặt (Kim Lân).

Lời giải:

Bài tham khảo 1: 

- Tương đồng: Hai kết thúc truyện cùng phản ánh hiện thực tăm tối của con người trước Cách mạng tháng Tám; cùng góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn; cùng là những kết thúc có tính mở, giàu sức gợi.

- Khác biệt: Kết thúc truyện Chí Phèo phản ánh hiện thực luẩn quẩn, bế tắc của người nông dân lao động, được thể hiện qua kết cấu đầu cuối tương ứng hàm ý tương lai sẽ chỉ là sự lặp lại của hiện tại; kết thúc truyện Vợ nhặt phản ánh xu hướng vận động tất yếu của số phận con người, được thể hiện qua kết cấu đối lập hàm ý tương lai sẽ mở lối cho hiện tại.

Bài tham khảo 2: 

* So sánh

- Giống nhau: đều là những cái kết mở, để lại cho người đọc những suy nghĩ sâu xa về diễn biến câu chuyện tiếp theo.

- Khác nhau:

+ Trong đoạn kết của Vợ nhặt, tác giả gợi ra cho người đọc về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn với sự xuất hiện của cách mạng qua hình ảnh lá cờ đỏ. Để lại ấn tượng mạnh trong người đọc về một cái kết có hậu, con người sẽ sớm thoát khỏi nạn đói, gia đình của Tràng sẽ có cuộc sống hạnh phúc và tốt đẹp hơn

+ Trong đoạn kết của Chí Phèo, tác giả để lại ấn tượng cho người đọc về một tương lai mờ mịt, đen tối qua hình ảnh lò gạch cũ – nơi Chí Phèo bị bỏ rơi. Phải chăng tác giả muốn truyền tải thông điệp rằng còn những người như bá Kiến, như Đội Tảo sẽ còn những người bất hạnh, khổ đau như Chí Phèo. Đây có thể coi là một cái kết buồn. 

* Nhận xét 

Dù kết của hai truyện là không giống nhau nhưng nó đều truyền tải đến một ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Một bên là niềm tin mãnh liệt của con người vào tương lai, vào cuộc sống hạnh phúc, một bên dù cuộc sống còn nhiều bất công nhưng con người vẫn sẽ mang trong mình bản tính lương thiện, đến thời điểm nhất định nó vẫn sẽ được biểu hiện dù hoàn cảnh có đày đọa họ như thế nào. Qua đó ta có thể thấy, cả hai tác giả đều có niềm tin mãnh liệt vào con người, vào ý chí của họ sẽ giúp họ vượt qua mọi khó khăn.

Câu hỏi 8. Hệ thống hoá những nét đáng chú ý trong nghệ thuật kể chuyện của Nam Cao ở truyện ngắn này trên các phương diện: người kế chuyện, điểm nhìn và lời trần thuật.

Lời giải:

Những nét đáng chú ý trong nghệ thuật kể chuyện của Nam Cao: 

- Người kể chuyện đem đến lối tư duy độc đáo về không gian, thời gian. Không cố định theo bất kì trình tự nào, ông kể từ hiện tại đến quá khứ, hiện tại và tương lai. Tất cả đều được diễn ra một cách khéo léo không chỉ làm nổi bật lên hoàn cảnh bất hạnh của Chí Phèo, mà nó còn làm nổi bật quá trình tìm lại chính mình, tìm lại sự lương thiện vốn có trong Chí Phèo. 

- Điểm nhìn nghệ thuật linh hoạt. Từ người dẫn chuyện đến lời nói của nhân vật, của người dân làng Vũ Đại đều được tác giả thể hiện một cách tài tình qua câu từ sắc bén. Qua đó thể hiện cái nhìn đa dạng, đa chiều của tác giả về một sự việc, khiến người đọc hiểu rõ hơn về tâm tư, tình cảm của các nhân vật trong câu chuyện. 

- Cấu trúc câu trần thuật mới mẻ, hấp dẫn nhằm truyền tải một cách hiệu quả nhất chủ đề tư tưởng của tác phẩm: khẳng định con người dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhà văn cũng tin tưởng vào bản tính lương thiện của con người dù cho họ có lầm đường lạc lối, họ vẫn sẽ đấu tranh đòi quyền được sống, quyền mưu cầu hạnh phúc.

KẾT NỐI ĐỌC - VIẾT

Đề bài: Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của bạn về chi tiết bát cháo hành của thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo.

Lời giải:

Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Nhắc đến Nam Cao là nhắc đến kiệt tác Chí Phèo với sự thành công xuất sắc về mặt nội dung. Nhưng bên cạnh đó, để tạo nên thành công cho tác phẩm, cũng không thể không nhắc đến những đóng góp về phương diện nghệ thuật. Trong đó các chi tiết nghê thuật có vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là chi tiết bát cháo hành Thị Nở mang cho Chí Phèo. Đối với Thị Nở, bát cháo hành thể hiện ý thức trách nhiệm của Thị Nở với Chí Phèo. Đối với Chí Phèo, trước hết nó là bát cháo giúp hắn giải cảm, giúp hắn vượt qua trận ốm. Nhưng nếu bát cháo hành chỉ có ý nghĩa như vậy thôi thì nó đã không xứng danh là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc. Bát cháo hành đã giúp Chí thức tỉnh, đi từ cõi quên trở về cõi nhớ, giúp Chí giải độc tâm hồn, dần lấy lại phần nhân tính trong mình. Bát cháo hành là chi tiết nghệ thuật đặc sắc, góp phần thúc đẩy mạch truyện tiếp tục phát triển. Qua đó còn khắc họa nét tính cách, tâm lí và bi kịch của cuộc đời Chí Phèo. Đồng thời chi tiết này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Nam Cao: ông luôn có niềm tin vào phần con người, phần nhân tính của mỗi con người, chỉ cần trong những điều kiện và hoàn cảnh thích hợp nhất định con người tha hóa cũng sẽ được cảm hóa.

PHẦN THAM KHẢO MỞ RỘNG 

Câu hỏi 1. Em hãy nêu giá trị nội dung, nghệ thuật của bài Chí Phèo (Nam Cao).

Lời giải:

1. Giá trị nội dung

  • Qua truyện ngắn Nam Cao đã khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám: một bộ phận nông dân lương thiện bị đẩy và tình trạng lưu manh hóa.
  • Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác tâm hồn của người nông dân lương thiện đồng thời khẳng định bản chất lương thiện ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình lẫn nhân tính
  • Chí Phèo là tác phẩm có giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc

2. Giá trị nghệ thuật

  • Tác phẩm thể hiện khả năng truyện ngắn bậc thầy của Nam Cao: xây dựng nhân vật điển hình bất hủ; nghệ thuật miêu tả sinh động, sắc sảo mà vẫn liên kết chặt chẽ; ngôn ngữ biểu cảm độc đáo.

Câu hỏi  2. Em hãy nêu nội dung chính của văn bản Chí Phèo (Nam Cao).

Lời giải:
Chí Phèo là một đứa trẻ bị bỏ hoang trong một lò gạch cũ và được nhặt về nuôi. Khi lớn lên Chí Phèo đi ở hết nhà này nhà khác. Về sau, hắn làm canh điền cho nhà Bá Kiến và tấm bi kịch cuộc đời hắn từ diễn ra từ đây. Vì Bá Kiến ghen nên hắn bị giải lên huyện và bị bắt bỏ tù. Sau khi trở về hắn trở thành "con quỷ" của làng Vũ Đại, làm tay sai cho Bá Kiến. Khi cuộc sống trở lên tuyệt vọng hắn giết bá Kiến rồi tự tự. Truyện khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng. Qua đó, nhà văn kết án đanh thép xã hội tàn bạo ấy, đồng thời thể hiện niềm thương cảm, lòng nhân đạo đối với số phận những người nông dân.

Câu hỏi  3. Nêu tác giả, tác phẩm, bố cục của văn bản Chí Phèo (Nam Cao).

Lời giải:

1. Tác giả

- Nam Cao (1915/1917 – 1951), tên thật là Trần Hữu Tri, quê ở Lý Nhân, Hà Nam.

- Quan điểm sáng tác:

  • Ông theo quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh: Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.
  • Tác phẩm phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi; ca tụng tình yêu, bác ái, công bằng.
  • Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra cái gì chưa có.

- Tác phẩm chính: Ông để lại khối lượng sáng tác lớn với nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, truyện ký như Sống mòn, Lão Hạc, Chí Phèo, Giăng sáng, Đôi mắt, ...

- Phong cách nghệ thuật:

  • Đề cao con người tư tưởng: Quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn hứng thú khám phá "con người trong con người".
  • Đi sâu khám phá nội tâm nhân vật.
  • Thường viết về những cái nhỏ nhặt nhưng lại mang ý nghĩa triết lý sâu sắc.
  • Ông có phong cách triết lý trữ tình sắc lạnh.

=> Là nhà văn hiện thực nhân đạo xuất sắc của thế kỉ XX. Nam Cao đã đưa chủ nghĩa hiện thực lên một bước đột phá: chủ nghĩa hiện thực tâm lí.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh ra đời

- Trên cơ sở người thật, việc thật ở làng Đại Hoàng quê mình, Nam Cao đã hư cấu, sáng tạo nên một bức tranh hiện thực sinh động về xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với tất cả sự ngột ngạt, tối tăm cùng những bi kịch đau đớn, kinh hoàng.

- Nhưng những cảnh ngộ cùng quẫn, bi đát trong xã hội ấy không làm cho những người dân khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát sống tốt đẹp, lương thiện.

- Tác phẩm được viết năm 1941.

b. Thể loại: Truyện ngắn.

c. Phương thức biểu đạt: Tự sự, miêu tả, biểu cảm.

3. Bố cục

  • Phần 1 (Từ đầu đến …cả làng Vũ Đại cũng không ai biết): Chí Phèo xuất hiện cùng tiếng chửi.
  • Phần 2 (Tiếp theo đến …không bảo người nhà đun nước mau lên): Chí Phèo mất hết nhân tính.
  • Phần 3 (Còn lại): Sự thức tỉnh, ý thức về bi kịch của cuộc đời Chí Phèo.

Câu hỏi  4. Phân tích tác phẩm Chí Phèo (Nam Cao).

Lời giải:

Nam Cao là nhà văn tiêu biểu với những sáng tác về người nông dân, tác phẩm Chí phèo được coi là kiệt tác, khẳng định tài năng và phong cách nghệ thuật của ông. Nhà văn đã dựng lên bức tranh về cuộc sống của những người nông dân dưới sự áp bức của địa chủ cường hào, đã đẩy họ con đường tha hóa và xuống tận cùng của xã hội.

Truyện Chí Phèo đã tái hiện lại hình ảnh nông thôn Việt Nam, của xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Xã hội này được đặc trưng, một bên bởi những bộ mặt như Bá Kiến, Lí Cường, Đội Tảo, Bát Tùng và những bè đảng xung quanh chúng, sống phè phỡn, gian ác, bạo ngược, vừa “du lại với nhau để bóc lột con em, nhưng ngấm ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để mà trị nhau”; một bên là đông đảo những người dân quê thấp cổ bé miệng, nơm nớp lo sợ, nhẫn nhục, quanh năm đầu tắt mặt tối vẫn không đủ ăn. Tầng lớp những người như Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức họp thành một nhóm riêng. Họ là những dân thường, những người lao động nghèo, nhưng đã lưu manh hóa, bị mua chuộc và trở thành tay sai của bọn cường hào, lí dịch và gây nên không biết bao nhiêu tai vạ cho những người lương thiện.

Dưới ngòi bút của Nam Cao, bức tranh xã hội hiện ra đầy kịch tính, chất chứa những xung đột bùng nổ.

Thông qua nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã trực tiếp nêu lên vấn đề con người bị tha hóa, bị vong thân, mất nhân tính, nhân cách vì bị áp bức bóc lột, vì đói khổ, cùng cực. Tác giả đã mổ xẻ vấn đề cuộc sống và số phận mỗi con người, ý thức về quyền sống, quyền làm người, ý thức về nhân cách, nhân phẩm ngay ở những con người bị cộng đồng khinh bỉ, hắt hủi, gạt ra bên lề xã hội, ngay ở một “thằng cùng hơn cả dân cùng”, tưởng như đã bị hủy hoại hoàn toàn cả nhân hình và nhân tính.

Bên cạnh đó, truyện Chí Phèo còn giúp người đọc có cơ sở để chia sẻ với những dằn vặt, đau khổ của con người khi không được làm người, chỉ mong ước được sống bình thường, “được làm người lương thiện” như mọi người khác mà không được. Sự kết hợp hai mặt xã hội và nhân bản trong chủ đề mà truyện ngắn Chí Phèo đặt ra càng làm cho tác phẩm này có giá trị văn học sâu hơn, có sức ngân vang lớn hơn.

Các nhân vật trong truyện của Nam cao đều có những nét tính cách đặc sắc, từ Chí Phèo, Thị Nở, cho đến Bá Kiến, Lí Cường, Năm Thọ, Binh Chức, Đội Tảo, Tự Lãng, bà cô Thị Nở v.v… Tất nhiên, trong các nhân vật này, gây ấn tượng mạnh mẽ nhất ở người đọc là Chí Phèo, Bá Kiến, Thị Nở. Mỗi nhân vật đúng là một cá tính, là “con người này”, không lẫn vào đâu được, với ngoại hình và tính cách riêng, lối sống riêng, ngôn ngữ riêng, số phận riêng, đồng thời lại tiêu biểu cho một loại người nào đó về mặt xã hội, sinh hoạt, tâm lí.

Bá Kiến là điển hình của bọn lí dịch cường hào ở nông thôn. Chúng đều có những nét chung: hống hách, gian ác, dâm ô, đầy thủ đoạn mưu mô để giành giật và củng cố chức quyền cho cá nhân và con cái, đục khoét, ức hiếp dân lành, hãm hại những kẻ không ăn cánh và chống đối. Bá Kiến càng tỏ ra ranh ma quỷ quyệt trong nghề làm tổng lí, đặc biệt khi phải đối phó với những tên vai vế tranh chấp chức quyền với hắn hoặc những kẻ cố cùng liều thân. Tùy người, tùy việc, y biết lúc nào thì quát tháo, dọa nạt, lúc nào thì nhẹ nhàng, dụ dỗ, mua chuộc. Chính nhờ vậy lão mới thực hiện được mọi ý đồ đen tối của mình, khuất phục được bọn đầu bò đầu bướu, hạ được các phe cánh đối nghịch trong làng, quyền thế ngày càng thăng tiến và vững vàng. Con người khôn ngoan lõi đời ấy đã khống chế lừa bịp được Chí Phèo lâu dài, nhưng cuối cùng đã bị Chí Phèo giết chết, vì từ trong thâm tâm, trong tiềm thức, Chí đã nhận ra lão chính là kẻ thù của. mình, kẻ đã tước đoạt quyền làm.người của mình.

Đối với Bá Kiến thì Chí Phèo cũng chỉ là một trong số những tên dân cùng liều lĩnh như Năm Thọ, Binh Chức, cho nên cách xử sự của lão đối với Chí Phèo nói chung cũng giống “sách lược” đối với hạng đầu bò đầu bướu: dọa nạt, trấn áp công khai hoặc ngấm ngầm; hoặc nếu cần thì vô hiệu hóa, mua chuộc, lợi dụng làm tay chân. Và Chí Phèo cũng như Năm Thọ, Binh Chức đều biết rõ bản chất, chỗ mạnh và chỗ yếu của Bá Kiến và hạng người như lão. Nhưng Chí Phèo phục vụ cho Bá Kiến lâu dài hơn, đắc lực hơn, ngay từ lúc là một anh canh điền chất phác, khỏe mạnh, và cả sau khi đi tù về trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí Phèo cũng bị lão hành hạ, đày đọa, làm nhục nhiều hơn. Và do vậy, Chí Phèo hiểu rõ lão hơn, nặng oán thù hơn đối với lão. Lúc tỉnh táo, Chí Phèo đã ý thức rõ về cảnh tủi nhục phải hầu hạ mụ vợ ba của Bá Kiến, về chuyện bị Bá Kiến hãm hại đẩy vào tù. Sau khi ở tù ra, hắn đã biến thành một con người khác. Từ một thanh niên hiền lành, rụt rè, hắn đã biến thành một tên lưu manh, liều lĩnh, hung dữ, rượu chè say khướt, chửi bới suốt ngày. Nhưng lúc tỉnh cũng như lúc say, trong ý thức và trong tiềm thức, hắn vẫn không bao giờ quên Bá Kiên. Bá Kiến đúng là nỗi ám ảnh của hắn.

Trong suốt thiên truyện, tác giả chỉ miêu tả ba lần Chí Phèo gặp Bá Kiến, sau khi hắn ở tù ra. Lần thứ nhất, sau khi uống rượu say, hắn xách một cái vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tên tục của lão ra mà chửi. Hắn định đến để gây sự. Gây sự, chửi bới, chống đối một người như Bá Kiến vừa đế thỏa sự căm giận, vừa có dịp để lên mặt với những người xung quanh, vừa có thể vòi tiền uống rượu. Với một người như Chí Phèo, một người mà sự liều lĩnh hung dữ là một cách để tự giới thiệu mình, để tồn tại và cũng là để che đậy sự sợ hãi cố hữu, thì không có gì có thể nói trước được về dự định và hành động. Tất cả tùy thuộc vào tình huống cụ thể. Gặp Lí Cường, bị Lí Cường quát mắng, tát tai, hắn rạch mặt, la làng, lăn đùng ra ăn vạ. Nhưng khi Bá Kiến “dịu dàng” chào hỏi, mời mọc, tỏ vẻ ân cần săn sóc, cho tiền, thì hắn lại nguôi ngoai, thích chí, hả hê.

Lần thứ hai, sau khi uống rượu say, hắn lại ngật ngưỡng đến nhà Bá Kiến nói là để đòi nợ. Gặp Bá Kiến, hắn xin đi ở tù, vì “ở tù còn có cơm ăn, còn ở làng ở nước thì không làm gì nên ăn, không mảnh đất cắm dùi”. Và, tất nhiên, kèm theo yêu cầu kì quặc ấy, là những lời dọa dẫm úp mở mà Bá Kiến rất hiểu rõ. Nhưng lần này lão Bá Kiến khôn ranh lại đẩy Chí Phèo đi đòi nợ Đội Tảo cho lão. Lão nghĩ bất kì kết cục nào cũng đều có lợi cho lão. Ngẫu nhiên, Chí Phèo lại đòi được nợ và được Bá Kiến cho mấy sào vườn ở bãi sông cấm thuê của một người làng trước đó. Và cũng từ đó, Chí Phèo bao giờ cũng say, và khi hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm, gây ra bao nỗi khiếp sợ và tai vạ cho dân làng.

Lần thứ ba, Chí Phèo gặp Bá Kiến sau khi bị Thị Nở từ chối không nhận làm vợ hắn. Cùng quẫn, phẫn chí, Chí Phèo uống rượu say, cầm dao đi định “đâm chết cả nhà nó”. Nhưng Chí Phèo lại quên rẽ vào nhà Thị Nở mà lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến, đòi được làm người lương thiện, và Chí đã đâm chết Bá Kiến rồi tự sát. Kết thúc này bề ngoài có vẻ ngẫu nhiên, thật ra lại rất tất yếu, bộc lộ rõ tính cách của Chí Phèo, ý đồ tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đây là một kết thúc khiến cho người đọc phải suy nghĩ rất nhiều về thực trạng và mâu thuẫn xã hội, về cuộc sống và bi kịch của đời người.

Câu chuyện đã tạo nên một ngã rẽ cho cuộc đời Chí từ khi gặp thị nở. Sau những ngày hạnh phúc ngắn ngủi với thị, Chí càng cảm thấy thêm cay đắng, khổ sở vì thân phận và điều này càng đẩy nhanh Chí đến một hành động tuyệt vọng. Chí không chỉ say, hung dữ, liều lĩnh, gây tội ác, mà còn biết sợ, tính toán, nhận diện được kẻ thù. Chí suy nghĩ, đau khổ về kiếp sống không bình thường, không ra người, không lương thiện của mình. Trong những ngày được hạnh phúc với Thị Nở, Chí cũng biết vui, biết mơ ước, biết buồn, biết ăn năn. Bị Thị Nở từ chối, đối với Chí, là một đòn đau không chịu đựng nổi. Từ kinh nghiệm sống, từ tiềm thức vô thức, Chí cảm nhận tình trạng bé tắc vô vọng của mình có nguyên nhân sâu xa hơn tội ác của Bá Kiến. Giết Bá Kiến cũng không có được sự giải thoát. Và hắn đã tự sát.

Dưới ngòi bút của Nam Cao Chí Phèo không chỉ là hình ảnh những tên cố cùng liều thân hoặc là điển hình, của những người nông dân lưu manh hóa vì sự áp bức bóc lột của bọn thực dân phong kiến, mà còn thể hiện bi kịch của con người bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người, quyền được hưởng hạnh phúc. Cái điều rất nghiêm trang, rất đau lòng, rất tội nghiệp mà Nam Cao đã ghi lại và muốn nhắn gửi cho người đời thông qua một câu chuyện tưởng như chẳng có gì, một số nhân vật dị dạng và một giọng văn pha nhiều tính chất hài hước, nội dung thông điệp đó nhiều thế hệ độc giả đã hiểu và càng đánh giá cao tác giả.

Xây dựng lên những nhân vật tiêu biểu, nhà văn đã dùng những ngôn ngữ của đời sống, ngôn ngữ được quần chúng nhân dân sử dụng hằng ngày, rất phong phú, sinh động, giàu hình ảnh. Có thể nói hơn bất kì một nhà văn nào khác cùng thời, ngôn ngữ Nam Cao cho đến bây giờ vẫn tỏ ra không cũ với thời gian, cả về mặt từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp.

Phải có sự cảm thông sâu sắc với thân phận những người nông dân Nam Cao mới có mới có một tác phẩm giá trị như vậy. Ông đã khắc họa lên bức tranh xã hội với những bọn địa chủ cường hào gian ác, những con người nông dân tội nghiệp, bị chèn ép, bóc lột, không để cho họ một con đường sống.

Từ khóa tìm kiếm google:

Giải ngữ văn 11 kết nối tri thức Bài 1 Chí Phèo (Nam Cao), giải ngữ văn 11 sách kết nối tri thức Bài 1 Chí Phèo (Nam Cao), giải Bài 1 Chí Phèo (Nam Cao) ngữ văn 11
Phần trên, hocthoi.net đã soạn đầy đủ lý thuyết và bài tập của bài học: Giải Ngữ văn 11 tập 1 sách KNTT Bài 1 Chí Phèo (Nam Cao) . Bài học nằm trong chuyên mục: Giải ngữ văn 11 tập 1 kết nối tri thức. Phần trình bày do Ngọc Diễm tổng hợp và thực hiện giải bài. Nếu có chỗ nào chưa rõ, có phần nào muốn hiểu rộng thêm, bạn đọc vui lòng comment bên dưới. Ban biên tập sẽ giải đáp giúp các bạn trong thời gian sớm nhất.

Bài soạn các môn khác

Bình luận