Danh mục bài soạn

Giải Ngữ văn 11 tập 2 sách KNTT bài 7 "Và tôi vẫn muốn mẹ" (Trích Những nhân chứng cuối cùng - Solo cho giọng trẻ em)

Hướng dẫn học môn Ngữ văn 11 tập 2 sách mới kết nối tri thức. Dưới đây là lời giải chi tiết bài 7 "Và tôi vẫn muốn mẹ" (Trích Những nhân chứng cuối cùng - Solo cho giọng trẻ em). Từng bài tập được giải chi tiết, rõ ràng, dễ hiểu. Hi vọng, hocthoi.net sẽ hỗ trợ các em trong quá trình học tập, giúp các em ngày càng tiến bộ hơn.

TRƯỚC KHI ĐỌC 

Câu hỏi 1. Hãy chia sẻ câu chuyện cảm động nói về tình cảm của mẹ con mà bạn từng biết qua các tác phẩm nghệ thuật (văn học, sân khấu, điện ảnh,...)

Lời giải:
Câu chuyện Hãy chăm sóc mẹ kể về một người mẹ đi lạc đường và những người con mang theo dòng ký ức về mẹ trên con đường đi tìm người mẹ ấy."Khi cô con gái soạn tin nội dung để đăng bài tìm mẹ sau một tuần mẹ mất tích. Cô viết ngày sinh của mẹ là ngày 24 tháng 7 năm 1938 bố cô nói rằng mẹ sinh năm 1936 mặc dù trên các giấy tờ ghi là 1938 nhưng thật ra mẹ sinh năm 1936. Đây là lần đầu tiên cô biết điều này, bố cô bảo ngày xưa tất cả mọi người đều làm như thế, có rất nhiều đứa trẻ sinh ra chưa đầy năm đã chết. Chính vì vậy khi một đứa bé được sinh ra bố mẹ sẽ nuôi con mình vài ba năm rồi mới làm giấy khai sinh. Cô sửa số 38 thành 36 nhưng anh trai lại bảo phải ghi năm sinh 1938 như trên đúng giấy tờ. Cô thầm nghĩ không biết có cần phải ghi chính xác đến thế không khi đây chỉ là tự soạn tờ rơi chứ không phải là khai báo với cơ qua chức năng. Nhưng cô cũng sửa số 36 thành 38. Cô cũng tự hỏi ngay cả ngày sinh của mẹ không biết có phải là ngày 24 tháng 7 không...." Đọc xong cuốn sách này bạn sẽ nhận ra cha mẹ đã hy sinh cho chúng ta nhiều như thế nào. Và ta đã ỷ lại tình thương đó, quên mất là cha mẹ cũng cần chúng ta được quan tâm. Khi mà người mẹ mất tích, những đứa con chợt nhận thấy sự hiện hữu của mẹ là vô cùng quan trọng đói với cuộc sống của mình. Và họ đã tự trách bản thân mình, ân hận vì sự vô tâm của mình. Và ngay cả chồng bà bấy lâu cũng đã vô tình đứng ngoài cuộc sống bà, rồi ông cũng đau khổ trách móc bản thân khi sự vệc xảy ra... Sẽ không phí thời gian để đọc đến trang cuối cùng. Câu chuyện phản ánh xã hội Hàn Quốc hàng chục năm về trước nhưng lại chính là không ít câu chuyện đúng với xã hội Việt Nam hiện tại. Đừng để trang sách còn gấp lại dở dang vì những trang cuối cùng mới thực sự cảm động nhất. Đây là cuốn sách văn học hay về cha mẹ mà bạn nên đọc qua.

Câu hỏi 2. Qua thực tế cuộc sống xung quanh, bạn biết được gì về những hậu quả mà chiến tranh gây ra đối với đời sống con người?

Lời giải:

Khi một cuộc chiến tranh xảy ra, ắt hẳn sẽ để lại nhiều hậu quả nặng nề cho bản thân những nước tham chiến cũng như toàn nhân loại trên nhiều phương diện. Nhưng có lẽ hậu quả nặng nề nhất phải kể đến là về con người. Hàng nghìn người đã ngã xuống vì chiến tranh. Họ có thể là những người lính trực tiếp tham gia chiến tranh. Họ cũng có thể chỉ là những người dân vô tội vì chiến tranh mà mất đi mạng sống của mình. Nhưng họ có một điểm chung, đều là những con người vô danh, không tên không tuổi. Có những người may mắn sống sót sau khi cuộc chiến kết thúc nhưng trở lại cuộc sống bình thường họ lại mang trong mình hai nỗi đau. Một nỗi đau về thể xác, đó là các thương binh, các bệnh nhân chất độc màu da cam… Một nỗi đau về tinh thần, đó là những dư chấn của cuộc chiến, những ám ảnh về chết chóc bom đạn, nỗi đau khi mất đi người thân, gia đình bị ly tán…

Không chỉ để lại hậu quả về con người, chiến tranh còn có sức tàn phá ghê gớm đối với môi trường thiên nhiên. Ô trường bị ô nhiễm nghiêm trọng bởi những chất thải hóa học dùng để chế tạo bom mìn, các chất độc hóa học giải xuống mặt đất không chỉ gây hại cho con người mà còn phá hủy những cánh rừng, động vật tự nhiên mất đi môi trường sống. Những dòng sông bị ô nhiễm nghiêm trọng, những cánh đồng khô hạn không được trồng trọt tưới tiêu bởi người nông dân. Không chỉ vậy, chiến tranh còn phá hủy vô số những công trình xây dựng vĩ đại của nhân loại. Một cuộc chiến xảy ra khiến cho nền kinh tế của các bên tham chiến đổ dồn vào cuộc chiến ấy. Khi cuộc chiến tranh kết thúc, dù giành chiến thắng hay thua cuộc, các nước tham chiến đều phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Một ví dụ điển hình như sau cuộc đại chiến thế giới, các nước đứng đầu về kinh tế như Anh, Pháp, Mỹ đều rơi vào các cuộc khủng hoảng kinh tế. Kinh tế không phát triển khiến cho người dân đói khổ, trình độ dân trí thấp và đất nước trở nên nghèo nàn lạc hậu. Các cuộc chiến tranh xảy ra khiến cho mối quan hệ quốc tế trở nên căng thẳng hơn, việc hợp tác giữa các quốc gia cũng trở nên khó khăn đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển của nhân loại.

ĐỌC VĂN BẢN 

Câu hỏi 1. Thời điểm và những sự kiện ban đầu xảy ra được lưu giữ trong kí ức của nhân vật.

Lời giải:

  • Thời điểm: học xong lớp một vào tháng Năm năm 41 và bố mẹ tiễn tôi đi trại hè đội viên Gô-rô-đi-sa (Gorodisha) gần Min-xcơ (Minsk). 
  • Sự kiện: mới bơi được một lần, hai ngày sau chiến tranh, đưa lên tàu và chở đi, máy bay Đức bay trên đầu còn chúng tôi hò reo. 

Câu hỏi 2. Những hình ảnh mà nhân vật chứng kiến trên đường đi trại hè đội viên.

Lời giải:

  • Đó là những chiếc máy bay lạ, cảnh chết chóc. 

Câu hỏi 3. Hoàn cảnh của chuyến đi có gì khác thường?

Lời giải:

  • Bị quân đội Đức chiêm mất thành phố và mọi người phải đến Mô-đô-vi-a (Mordovia).

Câu hỏi 4. Ấn tượng về nạn đói và chuyện ăn uống của con người trong đói khát.

Lời giải:

  • Không chỉ trại mồ côi đói, mà những người xung quanh chúng tôi cũng đói bởi mọi thứ đều chuyển ra tiền tuyến. 
  • Có con ngựa Mai-ca (Maika) già và rất dịu dàng nhưng bị giết; hai con mèo đói nữa. 

Câu hỏi 5. Trạng thái tinh thần của những đứa trẻ khi thiếu vắng mẹ 

Lời giải:

  • Những đứa trẻ òa khóc, gào khóc không nguôi.

Câu hỏi 6. Kết quả chờ đợi ba mẹ và niềm khát khao cháy bỏng của nhân vật.

Lời giải:

  • Nhưng họ đã mất tích đâu đó trong một trận bom, sau này những người láng giềng kể lại, cả hai đã lao đi tìm tôi. Khi tôi đã 51 tuổi và tôi vẫn muốn khao khát muốn gặp lại mẹ.

SAU KHI ĐỌC 

Câu hỏi 1. Hãy tóm lược nội dung được kể lại trong văn bản và cho biết những điểm nhấn quan trọng của câu chuyện.

Lời giải:

  • “Những nhân chứng cuối cùng” là cuốn sách tập hợp của 101 lời kể sống động, chân thực và tinh khiết nhất đến từ những đứa bé sống ở Belarus, Ukraine, Do Thái, Tatar, Latysh, Digan, Kazak,… – những đứa trẻ đã phải trải qua nỗi kinh hoàng của chiến tranh trong những tháng năm thơ ấu của mình, những đứa trẻ thời chiến. “Những nhân chứng cuối cùng” được viết năm 1985. Cuộc chiến tranh chống phát xít Đức cướp mất hàng chục triệu con người Liên Xô đã khiến nhiều ngôi làng Xô viết sau chiến tranh không còn bóng dáng đàn ông và tại những ngôi nhà góa bụa đó, Svetlana thường nghe được hai câu chuyện: Một của người mẹ và một của đứa con. 

Câu hỏi 2. Chỉ ra những yếu tố tạo nên tính xác thực của các sự kiện được nhân vật kể lại cũng như trạng thái tâm lí của nhân vật trước các sự kiện đó.

Lời giải:

  • Nhân vật tôi tự kể câu chuyện của mình, tự nhớ lại những ký ức tuổi thơ mà mình đã trải qua để thấy được cái hiện thực của chiến tranh và những giá trị của tình cảm gia đình. Nét đẹp đầu tiên của nhân vật tôi lúc bé đó chính là một đứa trẻ hồn nhiên, kiên cường. Nhân vật tôi reo hò khi lần đầu tiên thấy máy bay, chỉ biết ngồi lên xe đi và nghĩ mình đang được đi trại hè. Những đứa trẻ ngây thơ được chuẩn bị cho rất nhiều bánh kẹo, sẵn sàng sẻ chia số bánh kẹo đó cho những người lính bị thương. Chúng không biết rằng mai sau đây chúng sẽ không còn cái gì để ăn. Khi đói khát ngày một nhiều, cuộc sống của những đứa trẻ càng khổ cực hơn khi phải ăn cả cỏ, vỏ cây. Nét tính cách thứ hai cũng là nét tính cách khiến người đọc ấn tượng nhất đối với nhân vật tôi. Nhân vật tôi có tình cảm sâu sắc với ba mẹ của mình, đó có lẽ là thứ tình cảm giúp nhân vật tôi vượt qua sự khốc liệt của chiến tranh. Lúc nào cũng muốn được tìm lại mẹ, không ngại khó khăn khổ cực. 

Câu hỏi 3. Phân tích một số chi tiết, hình ảnh tạo nên bức tranh cuộc sống đặc biệt được tái hiện trong văn bản. Chi tiết, hình ảnh nào đã thực sự gây ấn tượng mạnh với bạn? Vì sao?

Lời giải:

* Cuộc sống nghèo đói, khổ cực

- không có chỗ nằm ngủ, chúng tôi đành chợp mắt trên rơm rạ…

- rồi nạn đói bắt đầu

- … người ta gọi đi ăn trưa, nhưng chẳng có gì để ăn.

- người ta giết Mai-ca. Và cho chúng tôi nước cùng một mẩu thịt rất nhỏ…

- …có thể ăn cả xô xúp, bởi trong xúp chẳng có gì.

- chúng tôi ăn hết tất cả chồi mầm, chúng tôi tước cả lớp vỏ non…

→ Đó là tình cảnh của cuộc sống di tản bởi chiến tranh. Ở đó, những đứa trẻ đáng ra phải nhận được tình yêu thương lại phải chịu cảnh nay đây, mai đó, không có đủ thức ăn để ăn mà chỉ gắng gượng để sống sót bằng cách ăn mọi thứ mà chúng có.

* Cuộc sống thiếu vắng tình thương của mẹ

- Những đứa trẻ nhỏ, chúng tôi có khoảng bốn mươi đứa… chúng tôi khóc rền. Gọi ba gọi mẹ.

- Cô bảo mẫu và giáo viên cố không nhắc đến từ “mẹ”…

- … ai đó bất ngờ nhắc đến mẹ, lập tức tất cả khóc òa

→ Đó là tiếng khóc của những đứa trẻ đáng thương, chúng còn quá nhỏ để xa mẹ. Chúng ngày đêm mong ngóng ngày được gặp lại ba mẹ của mình trong vô vọng. 

Câu hỏi 4. Toàn bộ câu chuyện được kể bởi một người vì chiến tranh mà đã phải nếm trải những ngày tháng đau thương ở tuổi ấu thơ, tác giả chỉ là người ghi lại. Vậy trong việc tạo lập văn bản này, tác giả đóng vai trò gì? Phân tích thái độ của tác giả khi ghi lại các sự kiện mà nhân chứng kể lại.

Lời giải:

  • Những kí ức về chiến tranh được lưu giữ qua ký ức của những đứa trẻ vừa chân thực, nhưng cũng đầy khốc liệt. Dưới cái nhìn của nhân vật tôi đó là bức tranh nhiều màu sắc có chút ngây ngô của trẻ con, có cả tình yêu thương sâu sắc dành cho gia đình. Việc tạo lập văn bản này, tác giả đóng vai trò làm người kể chuyện. Những câu chuyện mà nhân vật tôi kể, không có những khung cảnh gia đình áp, ở đó toàn sự chia ly xa cách. Nhưng ta vẫn có thể cảm nhận được sự yêu thương của nhân vật tôi dành cho cha mẹ, cũng như của cha mẹ dành cho nhân vật tôi. Thứ tình cảm đó khắc sâu vào tâm trí của tác giả theo nhân vật tận đến sau này. Đó là thứ tình cảm khát khao dai dẳng đi theo suốt những năm tháng trưởng thành của  nhân vật tôi. Tựa đề câu chuyện là “Và tôi vẫn muốn mẹ…” cho thấy thứ tình cảm mãnh liệt tình mẫu tử. Khi nhân vật tôi chỉ là một đứa trẻ, tình yêu lớn nhất là dành cho gia đình của mình. Dù có đói khát thì chúng vẫn không khóc lóc mà chỉ khóc khi nhớ đến mẹ của mình. Tận khi lớn lên thì thứ tình cảm đó vẫn không mất đi. Dù có không còn chiến tranh, cuộc sống đủ đầy thì thứ tình cảm đó vẫn ăn sâu nảy mầm trong tâm trí của nhân vật tôi.

Câu hỏi 5. Theo bạn, những yếu tố nào có khả năng tạo nên sức lay động của văn bản đối với người đọc? Thông điệp mà bạn nhận được từ văn bản "Và tôi vẫn muốn mẹ..." là gì?

Lời giải:

Các chi tiết: Những đứa trẻ lần đầu nhìn thấy máy bay, không hề biết những nguy hiểm đang cận kề. Tận khi tất cả khung cảnh xung quanh những đứa trẻ mất, thì chúng mới biết cái khốc liệt và thê thảm của những thứ này. Chúng phải trải qua một mình mà không được ở bên cạnh bố mẹ. Những đứa trẻ gặp những ngày lính bị thương và sẵn sàng cho đi tất cả những gì chúng có. Trong con mắt của những đứa trẻ ngây thơ này, thì đó như là những người cha của mình vì cha của những đứa trẻ này cũng đang phục vụ cho quân đội. Vì quân Đức đang chiếm đóng và tàn phá nặng nề, những đứa trẻ sẽ được đến những nơi mà không có chiến tranh. Nhưng đến nơi không có chiến tranh thì cuộc sống của những đứa trẻ vẫn không thể có một cuộc sống đủ đầy. Không có chỗ ăn, chỗ ngủ mà phải chợp mắt trên những đống rơm rạ. Chúng thiếu thốn đồ ăn đến mức mà những người bảo mẫu ở đấy phải giết cả con vật đang chở nước để ăn. Thiếu đồ ăn ngày một nhiều đến mức những đứa trẻ phải ăn cả vỏ cây và những chồi non, nếu như chúng không muốn chết đói. Thiếu đồ ăn không phải là điều tồi tệ nhất với những đứa trẻ mà là việc chúng phải xa gia đình của mình. Những đứa trẻ nhớ bố mẹ đến mức đêm nào cũng khóc, khiến cho những người giáo viên không dám nhắc đến mẹ trước mặt bọn chúng. Khi ngày càng nhớ mẹ, nhân vật tôi đã trốn đi để tìm mẹ.

Thông điệp: Chiến tranh đã khiến những gia đình phải xa cách, sinh ly tử biệt. Chiến tranh là thứ tàn phá nhân loại. 

KẾT NỐI ĐỌC - VIẾT 

Đề bài: Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) phân tích ý nghĩa hai câu cuối trong văn bản: "Tôi đã năm mươi mốt tuổi, tôi có hai con. Và tôi vẫn còn muốn mẹ".

Lời giải:
Chiến tranh đã dần tước đi tất cả. Chiến tranh cũng đã khiến cho những đứa trẻ vỡ mộng một cách tàn nhẫn, khi chúng đau đớn nhận ra rằng trò chơi giả trận chẳng hề giống như những gì chúng vẫn luôn nghĩ đến. Chiến tranh cũng đã tác động sâu sắc đến nhận thức của những đứa trẻ, khiến cho chúng như “đã già đi”, không còn giữ được sự ngây thơ, hồn nhiên, mà nhìn cuộc đời bằng sự tiêu cực, trực diện với những chiều kích tăm tối của nó. Chỉ trong hai câu văn ngắn thế này, mà nỗi đau đằng đẵng suốt năm tháng gắn liền với khát vọng yêu thương tận cùng trái tim vang lên đầy day dứt: “Tôi đã năm mươi mốt tuổi, tôi có hai con. Và tôi vẫn còn muốn mẹ.” (Lời của một người đã mất mẹ trong cuộc chiến). Hai câu thơ cho thấy niềm khao khát của một đứa trẻ đã mất mẹ trong thời chiến thật ám ảnh, day dứt biết bao! 

PHẦN THAM KHẢO MỞ RỘNG 

Câu hỏi 1. Em hãy nêu giá trị nội dung, nghệ thuật của bài "Và tôi vẫn muốn mẹ" (Trích Những nhân chứng cuối cùng - Solo cho giọng trẻ em).

Lời giải:

1. Giá trị nội dung

Tác phẩm “Và tôi vẫn muốn mẹ…” của A-lếch-xi-ê-vích cho chúng ta thấy được một bức tranh hiện thực về chiến tranh khốc liệt, nhưng ở đó vẫn có những đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ, mang trong mình những tình cảm thiêng liêng. Từ đó, ta càng trân trọng cuộc sống hòa bình hiện nay và càng yêu thương gia đình hơn. 

2. Giá trị nghệ thuật

- Truyện kí một thể loại mang đậm dấu ấn về khắc họa nhân vật

- Ngôn ngữ giàu sức biểu cảm

 

- Câu từ dễ hiểu và hợp lí

Câu hỏi 2. Em hãy nêu nội dung chính của văn bản "Và tôi vẫn muốn mẹ" (Trích Những nhân chứng cuối cùng - Solo cho giọng trẻ em).

Lời giải:
Tác phẩm “Và tôi vẫn muốn mẹ…” của A-lếch-xi-ê-vích khắc họa một bức tranh chiến tranh khốc liệt, nhưng ở đó vẫn có những đứa trẻ như nhân tôi hồn nhiên, ngây thơ nhưng mang những tình cảm thiêng liêng và tình cảm đầy sâu nặng của người mẹ. Từ đó giúp con người biết trân trọng cuộc sống hòa bình và càng yêu thương gia đình hơn.

Câu hỏi 3. Nêu tác giả, tác phẩm, bố cục của văn bản "Và tôi vẫn muốn mẹ" (Trích Những nhân chứng cuối cùng - Solo cho giọng trẻ em)

Lời giải:

1. Tác giả

- Svetlana Alexievich sinh ngày 31 tháng 5 năm 1948) là một nhà báo điều tra và nhà văn thể loại văn xuôi hiện thực. 

- Bà là người Belarus nhưng viết văn và báo bằng tiếng Nga. Bà được trao giải Nobel Văn học năm 2015 "vì lối viết phức điệu, một tượng đài tưởng niệm sự thống khổ và lòng can đảm trong thời đại của chúng ta"

- Tác phẩm chính: Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ (1983); Những nhân chứng cuối cùng (1985); Lời nguyện cầu từ Chéc-nô-bưn - Chemobyl (1997)

2. Tác phẩm 

- Thể loại: Truyện kí

- Phương thức biểu đạt: Tự sự, phỏng vấn

- Hoàn cảnh xuất xứ của tác phẩm: Tác phẩm Và tôi vẫn muốn mẹ được trích trong “Những nhân chứng cuối cùng” sáng tác năm 1985.

- Bố cục:

  • Phần 1 (Lớp một...không có chiến tranh): Chuyến di tản khỏi chiến tranh của nhân vật tôi.
  • Phần 2 (Họ chở chúng tôi...hái tầm ma mà): Cuộc sống khó khăn, gian khổ trong chiến tranh.
  • Phần 3 (Còn lại): Mong ước của nhân vật tôi.

Câu hỏi 4. Phân tích tác phẩm "Và tôi vẫn muốn mẹ" (Trích Những nhân chứng cuối cùng - Solo cho giọng trẻ em).

Lời giải:

       Chiến tranh luôn tàn khốc, nó gây ra cho con người biết bao những tổn thương nặng nề. Xvét-la-na A-lếch-xi-ê-vích cũng đã tái hiện cái thực tế tàn bạo đó, cùng với tình cảm mẹ con thiêng liêng qua tác phẩm “Và tôi vẫn muốn mẹ…” được trích trong “Những nhân chứng cuối cùng” sáng tác năm 1985.

       Trong con mắt của những đứa trẻ thơ, chúng chưa biết được chiến tranh là như thế nào. Nhưng thông qua những con chữ ta vẫn có thể thấy được những cảnh tượng tang thương, ám ảnh mà chiến tranh mang lại. Nhân vật tôi tự kể câu chuyện của mình, tự nhớ lại những ký ức tuổi thơ mà mình đã trải qua để thấy được cái hiện thực của chiến tranh và những giá trị của tình cảm gia đình. Nét đẹp đầu tiên của nhân vật tôi lúc bé đó chính là một đứa trẻ hồn nhiên, kiên cường. Nhân vật tôi reo hò khi lần đầu tiên thấy máy bay, chỉ biết ngồi lên xe đi và nghĩ mình đang được đi trại hè. Những đứa trẻ ngây thơ được chuẩn bị cho rất nhiều bánh kẹo, sẵn sàng sẻ chia số bánh kẹo đó cho những người lính bị thương. Chúng không biết rằng mai sau đây chúng sẽ không còn cái gì để ăn. Khi đói khát ngày một nhiều, cuộc sống của những đứa trẻ càng khổ cực hơn khi phải ăn cả cỏ, vỏ cây. Đọc những câu văn này khiến người đọc phải xót xa, thương cho tình cảnh khốn khó này. Nhưng khó khăn là thế nhưng nhân vật tôi vẫn rất là kiên cường, có gì ăn nấy thích nghi nhanh trước hoàn cảnh. Là một đứa trẻ nhưng có thể làm rất nhiều công việc để giúp đỡ người khác. 

    Nét tính cách thứ hai cũng là nét tính cách khiến người đọc ấn tượng nhất đối với nhân vật tôi. Nhân vật tôi có tình cảm sâu sắc với ba mẹ của mình, đó có lẽ là thứ tình cảm giúp nhân vật tôi vượt qua sự khốc liệt của chiến tranh. Lúc nào cũng muốn được tìm lại mẹ, không ngại khó khăn khổ cực. Những câu chuyện mà nhân vật tôi kể, không có những khung cảnh gia đình áp, ở đó toàn sự chia ly xa cách. Nhưng ta vẫn có thể cảm nhận được sự yêu thương của nhân vật tôi dành cho cha mẹ, cũng như của cha mẹ dành cho nhân vật tôi. Thứ tình cảm đó khắc sâu vào tâm trí của tác giả theo nhân vật tận đến sau này. Đó là thứ tình cảm khát khao dai dẳng đi theo suốt những năm tháng trưởng thành của  nhân vật tôi. Tựa đề câu chuyện là “Và tôi vẫn muốn mẹ…” cho thấy thứ tình cảm mãnh liệt tình mẫu tử. Khi nhân vật tôi chỉ là một đứa trẻ, tình yêu lớn nhất là dành cho gia đình của mình. Dù có đói khát thì chúng vẫn không khóc lóc mà chỉ khóc khi nhớ đến mẹ của mình. Tận khi lớn lên thì thứ tình cảm đó vẫn không mất đi. Dù có không còn chiến tranh, cuộc sống đủ đầy thì thứ tình cảm đó vẫn ăn sâu nảy mầm trong tâm trí của nhân vật tôi. Viết về đề tài chiến tranh, các nhà văn Việt Nam cũng có rất nhiều tác phẩm nói về hiện thực chiến tranh và ca ngợi tình cảm gia đình trong thời kỳ đó. Như “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. Cả hai nhà văn đều dùng những ngòi bút riêng của mình để lên án cái thảm khốc của chiến tranh và ca ngợi cái kiên cường, tình cảm con người trong thời kỳ đó.

       Qua tác phẩm “Và tôi vẫn muốn mẹ…” của A-lếch-xi-ê-vích ta thấy được một bức tranh chiến tranh khốc liệt, nhưng ở đó vẫn có những đứa trẻ như nhân tôi hồn nhiên, ngây thơ nhưng mang những tình cảm thiêng liêng. Từ đó ta càng trân trọng cuộc sống hòa bình hiện nay và càng yêu thương gia đình hơn.

Từ khóa tìm kiếm google:

Giải ngữ văn 11 kết nối tri thức bài 7 "Và tôi vẫn muốn mẹ" (Trích Những nhân chứng cuối cùng - Solo cho giọng trẻ em), giải ngữ văn 11 sách kết nối tri thức bài 7 "Và tôi vẫn muốn mẹ" (Trích Những nhân chứng cuối cùng - Solo cho giọng trẻ em), giải bài 7 "Và tôi vẫn muốn mẹ" (Trích Những nhân chứng cuối cùng - Solo cho giọng trẻ em) ngữ văn 11
Phần trên, hocthoi.net đã soạn đầy đủ lý thuyết và bài tập của bài học: Giải Ngữ văn 11 tập 2 sách KNTT bài 7 "Và tôi vẫn muốn mẹ" (Trích Những nhân chứng cuối cùng - Solo cho giọng trẻ em) . Bài học nằm trong chuyên mục: Giải ngữ văn 11 tập 2 kết nối tri thức. Phần trình bày do Ngọc Diễm tổng hợp và thực hiện giải bài. Nếu có chỗ nào chưa rõ, có phần nào muốn hiểu rộng thêm, bạn đọc vui lòng comment bên dưới. Ban biên tập sẽ giải đáp giúp các bạn trong thời gian sớm nhất.

Bài soạn các môn khác

Bình luận