Danh mục bài soạn

Đang cập nhật nội dung...

Soạn SBT cánh diều ngữ văn 10 bài 1: Thần thoại và sử thi

Hướng dẫn giải: Giải SBT bài 1: Thần thoại và sử thi, trang 9 ngữ văn 10 tập 1 bộ sách cánh diều. Hi vọng, với cách hướng dẫn cụ thể và giải chi tiết học sinh sẽ nắm bài học tốt hơn.

Giải đáp câu hỏi và bài tập

Câu 10: (Câu hỏi 5, SGK) Trong phần kết, truyện nêu tên bảy vị thần gắn với việc giải thích nguồn gốc các sự vật, hiện tượng tự nhiên. Theo tưởng tượng của em còn có vị thần nào khác nữa? Tên vị thần ấy là gì?

Câu 11: Truyện gửi gắm niềm tin thiêng liêng đối với các vị thần của con người ở “buổi bình minh lịch sử”. Theo em, niềm tin thiêng liêng ấy có còn ý nghĩa đối với con người ngày nay không? Tại sao?

Ra-ma buộc tội

Câu 1: Theo đoạn trích, sau chiến thắng, Ra-ma và Xi-ta gặp lại nhau trong bối cảnh nào?

A. Trướcsự chứng kiến của đông đủ mọi người: bạn hữu của Ra-ma, loài khỉ Va-na-ra, loài quỷ Rắc-sa-xa, các bậc thánh và chư thần

B. Trước sự chứng kiến của đông đủ mọi người: những người thân trong gia đình Ra-ma, loài khỉ Va-na-ra, các bậc thánh và chư thần, thần Lửa

C. Trước sự chứng kiến của đông đủ mọi người: bạn hữu của Ra-ma, loài khỉ Va-na-ra, các bậc thánh và chư thần, thần Nước

 

D. Trước sự chứng kiến của đông đủ mọi người: bạn hữu của Ra-ma, loài quỷ Rắc-sa-xa, các bậc thánh và chư thần, thần Lửa

Câu 2: Khi nói những lời ruồng bỏ Xi-ta, Ra-ma chủ yếu đứng trên cương vị nào?

A. Một người chồng trước người vợ không thuỷ chung

B. Một đức vua trước đông đảo dân chúng

C. Một người anh hùng vừa chiến thắng

D. Một người đang chịu án lưu đày

 

Câu 3: Nhân vật Xi-ta được miêu tả qua những phương diện nào?

A. Lời nói, nội tâm và hành động

B. Ngoại hình, hành động và lời nói

C. Ngoại hình, hành động và nội tâm

D. Ngoại hình, lời nói, nội tâm và hành động

Câu 4: Tâm trạng của Xi-ta trước những lời buộc tội của Ra-ma:

A. Đau đớn và thất vọng về Ra-ma

B. Đau đớn và uất hận Ra-ma

C. Đau đớn nghẹn ngào và xấu hổ

D. Đau đớn và căm ghét Ra-ma

Câu 5: Điểm giống nhau giữa nhân vật Ra-ma và Đăm Săn:

A. Lí trí tỉnh táo, đề cao danh dự của gia đình và cộng đồng

B. Tình cảm phong phú, đề cao danh dự của gia đình

C. Lí trí tỉnh táo, đề cao danh dự của cộng đồng

D. Tình cảm yếu đuối, đề cao danh dự của cá nhân

Câu 6: Đặc điểm gì trong tính cách khiến nhân vật Ra-ma gần với con người đời thường?

Câu 7: Chỉ ra điểm khác nhau giữa nhân vật Ra-ma và Đăm Săn.

Câu 8: Theo em, thông điệp của đoạn trích Ra-rma buộc tội là gì?

Câu 9: (Câu hỏi 3, SGK) Qua hai nhân vật Ra-ma, Xi-ta, em hiểu như thế nào về quan niệm của người Ấn Độ cổ đại đối với mẫu người anh hùng lí tưởng và mẫu người phụ nữ lí tưởng? Theo em, quan niệm đó còn phù hợp với ngày nay không? Tại sao?

Câu 10: (Câu hỏi 4, SGK) Từ đoạn trích Ra-ma buộc tội, hãy liên hệ với đoạn trích Hê-ra-clét đi tìm táo vàng để chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt của nhân vật anh hùng trong sử thi và thần thoại (các phương diện: ngoại hình; diện mạo, nội tâm,...).

Câu 11: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

“Tóm tắt: Vợ chồng Gia-rơ Kốt- Hơ-bia Đá sinh được một con trai đặt tên là Xing Nhã. Ngày lễ “thổi tai”(1) cho con, Vợ chồng Gia-rơ Kốt mời vợ chồng bạn thân là Gia-rơ Bú tới dự nhưng Gia-rơ Bú từ chối mà chỉ cho vợ là Hơ-bia Guê đến. Ghen ghét với cuộc sống giàu có, hạnh phúc của nhà Gia-rơ Kốt, lại nghe vợ xúc xiểm(2) Gia-rơ Bú kéo nô lệ đến đánh phá buôn làng, cướp đoạt của cải và giết hại Gia-rơ Kốt, bắt Hơ-bia Đá về làm nô lệ. Xing Nhã được ông Gỗn(3) cứu thoát, giao cho vợ chồng Xing Yuê và Bang Ra nuôi dưỡng. Lớn lên Xing Nhã được nàng Bơ-ra Tang yêu và chỉ cho biết kẻ đã phá hoại gia đình chàng.

(1) Lễ “thổi tai”: cầu mong cho con mau khôn lớn.

(2) Xúc xiểm: xúi giục gây mâu thuẫn hoặc làm hại người khác.

(3) Ông Gỗn: vị thần ở trên trời, thường làm điều tốt lành.

Đoạn trích dưới đây kể chuyện Xing Nhã quyết tâm tìm tới buôn làng của Gia-rơ Bú, chiến đấu với anh em Gia-rơ Bú để đòi lại công bằng cho cha mẹ.

Đêm hôm ấy Xing Nhã trằn trọc mãi, ngồi không được, ngủ không nổi, đứng cũng không yên. Ngoài bờ suối, con chim pu-pút điểm canh từng hồi dài. Xing Nhã ra ngoài hè, bước lên lại bước xuống cầu thang. Lòng thương mẹ nhớ cha đã giục Xing Nhã đến nhà Bơ-ra Tang giữa đêm khuya khoắt. Nghe tiếng bước chân làm rung rinh sàn nhà, Bơ-ra Tang thức dậy chưa ra nhìn mặt, hỏi:

Bơ-ra Tang - Ơ anh! Anh muốn hút thuốc, tại sao không tới từ lúc chiều, muốn ăn trầu, tại sao không đi từ lúc sớm? Nửa đêm rồi, anh tới hỏi em có việc gì? Nếu anh muốn ăn cơm kê trên gác bếp, ăn cơm nếp trong nồi, bầy trai gái nhà em đã lo xong từ tối.

Xing Nhã - Anh ăn cơm rồi. Anh muốn em hãy cho anh xin một con thoi chỉ dài đem về sửa soạn chiếc khiên của anh.

Bơ-ra Tang vào buồng lấy cho Xing Nhã một thoi chỉ trắng. Xing Nhã trở về. Trời vừa sáng. Con chim pu-pút đã ngừng kêu. Gặp cha, Xing Nhã hỏi:

Xing Nhã - Ở cha! Cha hãy gọi cho con một trăm người khoẻ, một nghìn người mạnh, đi tìm cây to làm khiên cho con.

Cả đoàn người lũ lượt kéo tới ruộng lầy có chuối mọc, đến thác Đang hoa nở, từ bờ sông lớn, gốc cây xoài ngả nghiêng. Họ kéo tới vùng bà Hơ-bút, bà Hơ-tang đang dệt vải, nhìn thấy mái nhà mẹ Đung, mẹ Đai(1), thấy cây kơ-pa cao, cây kơ-lơng ngọn đụng tới Mặt Trời. Xing Nhã đo gốc cây vừa tròn một thoi chỉ. Gốc cây kơ-lơng lớn đến nỗi phải đi vòng một năm mới giáp gốc, năm tháng mới mút cành, lá dài hơn một dặm(2) cánh chim bay.

Xing Nhã cho dân làng đốn miết, đốn mãi, đốn từ mùa này sang mùa khác mà cây không ngã, gốc không nghiêng, Xing Nhã gọi cha là Xing Yuê đốn thử. Cây vẫn đứng trơ trơ. Cuối cùng Xing Nhã mời bạn Tông Á và Tông Yuê đốn một bên, Xing Nhã đốn một bên. Những nhát rìu của Xing Nhã toé lửa, bắn những mảnh cây kơ-lơng tung bay tứ phía, bay tới nhà Gia-rơ Bú, trúng trai gái ở bến nước, trúng bà già đi hái củi, trúng nhà Gia-rơ Bú gẫy xà ngang, tan xà dọc, bể ché túc(3) trị giá bằng con voi, bể ché ba(4) trị giá bằng con bò.

Những mảnh gỗ của Xing Nhã bay đi, làm cho con tê giác không dám ở trong bãi, con voi không dám ở trong rừng, trâu bò chạy lung tung trên bãi cỏ.

Những mảnh gỗ của Xing Nhã bắn lần thứ hai làm đứt cả canh chỉ của nàng Hơ-bia Bơ-lao(5) đang dệt.

Mấy ngày sau, cây kơ-lơng mới đổ. Xing Nhã tiếp tục chặt cành. Một tháng, hai tháng, ba tháng, Xing Nhã mới làm xong chiếc khiên. Hàng trăm, hàng nghìn dân làng nhắc khiên không nổi. Xing Nhã bước tới, một tay nâng khiên một tay giơ lên đầu, đội về buôn(6). Về tới nhà, ở một ngày, nghỉ một tháng, Xing Nhã suy tính chuyện đi đòi công bằng cho cha mẹ.

Buổi sáng, Xing Nhã ngồi nắn lại vành khiên của cha. Phía dưới khiên đổ đồng, phía trên đổ chì, vành khiên nạm bạc sáng chói. Khiên làm xong. Xing Nhã múa thử. Chiếc khiên múa xoay phía dưới chết con cọp, xoay phía trên chết con voi, khiên xoay theo đường cái, đất bụi dấy mù mịt, trời nổi dông to, gió lớn.

Bang Ra và Xing Yuê - Ta hãy lấy bảy ché rượu ngon, bảy con trâu đực trắng, cúng cho Trời cho Đất phù hộ con trai ta khoẻ mạnh. Ta hãy lấy con gà cúng thần Nước, ta lấy con lợn cúng Y Rít(7) phù hộ con trai ta khôn lớn, đừng đi chết bỏ xương nơi đất khác.

(Cúng xong, cha mẹ nuôi của Xing Nhã lấy dây, nhờ Tông Á và Tông Yuê trói Xing Nhã lại. Trối lần thứ nhất, thứ hai, thứ ba, Xing Nhã cựa mình, dây đứt. Lần thứ tư,

Bang Ra trói Xing Nhã bằng sợi dây sắt cũng đứt nối. Bang Ra lấy dây xích của Xing Nhã dùng để đánh quay trói chặt lại. Xing Nhã cố vùng vẫy. Lát sau, hồn của Xing Nhã bị Giàng Trời(8) bắt. Xing Nhã chết. Linh hôn Xing Nhã bay tới nhà ông Gỗn, được ông Gỗn cho uống thuốc, tỉnh lại. Xing Nhã trở về từ giã cha mẹ nuôi, đi tìm kẻ thù. Vượt qua muôn trùng trở ngại, Xing Nhã tới được nhà kẻ thù. Đoạn dưới đây miêu tả cuộc chiến đấu cuối cùng của Xing Nhã với anh em Gia-rơ Bú).

Hai bên lại đánh nhau. Năm em trai của Gia-rơ Bú đã chết tại gốc cây đa và núi lạ. Gia-rơ Bú bứt rứt, ngồi không yên, nằm không được, tay trái lấy chiếc khiên, tay phải nắm cán đao, Gia-rơ Bú đi vào phía rẫy của Hơ-bia Bơ-lao.

Xing Nhã - (Gặp Gia-rơ Bú) Ở Gia-rơ Bú, ai chạy trước?

Gia-rơ Bú - Hỡi con chim linh mọc chưa đủ lông cánh(9), hãy múa thử đi!

 

Xing Nhã quay khiên múa. Đất bụi bay mù mịt như mây trời tháng Bảy. Xing Nhã nhảy qua trái núi, lượn qua con suối, phăng qua đầu đèo, nhanh hơn bầy chim diều, chim ó.

Gia-rơ Bú nhìn theo, tối mày tối mặt, không đoán được đường đao của Xing Nhã chĩa về hướng nào.

Gia-rơ Bú - Được, bây giờ ta không giết được mày thì tao sẽ tìm cách phá sạch làng mày! Té ra đứa nào cũng là đầu đen máu đỏ(10) cả sao?

Xing Nhã - (ngừng múa) Ở Gia-rơ Bú! Ta đang đứng ở phía Mặt Trời mọc đây rồi. Bây giờ thì ngươi múa đi, ta đuôi theo.

Gia-rơ Bú múa lúng túng, múa loanh quanh như con gà mắc nước, như sao lạc đường. Đường đao chỉ đâm vào giữa trống không.

Xing Nhã mới đi một bước, đã chém trúng ngay chân Gia-rơ Bú.

Xing Nhã - Ơ Gia-rơ Bú, máu gì chảy ở chân đây?

Gia-rơ Bú - Máu con vắt ở núi Hơ-mũ cắn tao.

Gia-rơ Bú múa tiếp, Xing Nhã chém luôn cánh tay phải, chiếc đao rơi “rỏn rẻn”...

Xing Nhã - Tại sao khiên của ngươi rơi mất rồi?

Gia-rơ Bú - Không phải! Đó là tiếng kêu của chiếc lục lạc trẻ con chơi, tiếng vù của con diều đói gió đấy!

Gia-rơ Bú cố sức múa nữa, nhưng lần này chưa kịp trở tay thì chiếc khiên đã bị Xing Nhã đánh vỡ tung, rơi xuống đất.

Cuối cùng đôi bên chỉ còn Pơ-rong Mưng(11) và Xing Nhã đánh nhau.

[...] Trên trời, dưới đất, mây mưa mù mịt, gió bão ầm ầm, đổ cây lở núi. Hai bên đánh nhau từ khi trái khơ-la chín, đến mùa kê trổ, vẫn không phân thắng bại. Cả hai đều kiệt sức, ngã trước chòi của Hơ-bia Bơ-lao.

(Cuối cùng nhờ sự giúp sức của Hơ-bia Bơ-lao, Xing Nhã giết chết Pơ-rong Mưng - người cuồi cùng trong bảy anh em nhà Gia-rơ Bú, báo thù cho cha, cứu mẹ già thoát khỏi cuộc sông nô lệ.)”

(Theo ĐỖ BÌNH TRỊ (Chủ biên), Văn tuyển văn học Việt Nam (Văn học dân gian), NXB Giáo dục, 1982)

(1) Bà Hơ-bút, bà Hơ-tang, mẹ Đung, mẹ Đai: tên những bà già tốt bụng ở trên làng Trời.

(2) Dặm: quãng đường dài.

(3), (4) Ché túc, ché ba: những loại vật dụng người Ê-đê rất quý.

(S) Hơ-bia Bơ-lao: cô gái giữ rẫy cho Gia-rờ Bú.

(6) Buôn: giống như làng của người Việt (Kinh).

(7) Y Rít: một vị thần cai quản khoảng giữa trời và đất, vùng “chân trời”.

(8) Giàng Trời: ông Trời.

(9) Con chim linh mọc chưa đủ lông cánh: cách nói hàm chứa sự coi thường của Gia-rơ Bú dành cho Xing Nhã.

(10) Đầu đen máu đỏ: ý nói cứng đầu cứng cổ, gan góc, chăng kiêng nể ai.

(11) Poong Mưng: em trai thứ bảy của Gia-rơ Bú.

a) Xác định đề tài và đặt nhan đề cho văn bản.

b) Hãy chỉ ra đặc điểm của thể loại sử thi được thể hiện ở văn bản.

 

c) Điểm giống nhau giữa các nhân vật: Xing Nhã, Đăm Săn, Ra-ma là gì?

II. Bài tập tiếng Việt 

Câu 1: Từ nào sau đây đúng ngữ âm, chính tả tiếng Việt?

a) biểu ngữ / biển ngữ

b) cảm khoái / cảm khái

c) khuyên góp / quyên góp

đ) việt vị / liệt vị

e) chuẩn đoán / chẩn đoán

Câu 2: (Bài tập 2, SGK) Những từ in nghiêng trong các câu sau mắc lỗi gì? Hãy tìm từ đúng để thay thế cho các từ đó.

a) Hê-ra-clét và Ăng-tê đã giao đầu với nhau vô cùng quyết đoán.

b) Sau những chiến công lừng lẫy, khắp nơi đều nghe danh giá Đăm Săn.

c) Dù phải “luyện đá vá trời” hết sức vất vả nhưng Nữ Oa đã thực hiện một cách công phu, hoàn thành mĩ miều.

d) Thực phẩm nhiễm khuẩn đã làm nhiều người bị ngộ sát, may mà được cứu chữa kịp thời.

Câu 3: Chọn từ trong ngoặc đơn phù hợp với nội dung câu và giải thích vì sao em chọn như vậy.

a) Đứng trên đỉnh cao (trót vót / chót vót) của ngọn núi, chúng ta có thể ngắm

được toàn cảnh thành phố.

b) Dẫu trải qua muôn vàn khó khăn nhưng chúng ta vẫn không hề bị dịch bệnh COVID-19 (khắc phục / khuất phục).

c) Khi trời đất mới sinh, đã có cỏ cây, (muôn thú / muông thú) mà chưa có loài người.

d) Lạ thay, vừa đặt chân xuống, đồ vật xinh xắn ấy bỗng dưng có sức sống, cất tiếng nói (chong chẻo / trong trẻo) nhảy múa vui đùa.

e) Con người thoát được kiếp nạn, trở lại được cuộc sống (ngày nhật / thường ngày) là nhờ công đức tu dưỡng của mỗi người.

 

Câu 4: (Bài tập 3, SGK) Phát hiện, phân tích lỗi và sửa lỗi dùng từ trong các câu sau:

a) Lượng mưa năm nay kéo dài đã gây nhiều thiệt hại cho mùa màng.

b) Những bệnh nhân không cần phải mổ mắt, được khoa Dược tích cực pha chê, điều trị bằng những thứ thuốc tra mắt đặc biệt.

c) Những chứng minh về một nền văn hoá cổ ở vùng này còn rất nhiều.

d) Trước lối chơi lực lượng của hàng phòng thủ đối phương, đội bóng của chúng tôi không thể ghi bàn được.

Câu 5: Trong những kết hợp sau đây, kết hợp nào bị xem là sai hoặc dư thừa?

a) anh con trai

người con trai

b) trận thu phong

trận gió thu phong

c) giải pháp tối ưu

giải pháp tối ưu nhất

d) quyền lực tối cao

quyền lực tối cao nhất

Câu 6: Chọn từ thích hợp trong ngoặc đơn và điền vào chỗ trống trong các câu sau:

a) Nghe xong câu chuyện, anh ấy không nói gì thêm nhưng nét mặt thì lộ vẻ ......... (buồn rầu, ảm đạm, bùi ngùi, đăm chiêu).

b) Cứ xem họ................... (chăm chút, chăm lo, chăm nom, chăm sóc) chúng tôi, đủ biết họ đã có cảm tình với chúng tôi thể nào.

c) Những lời.................... (chửi bới, chửi rủa, lăng mạ, mạt sát) ấy thật quá đáng, khi mà chúng tôi vẫn lao động hết mình.

d) Ông ấy là người thầy có ................... (uy lực, uy tín) nên luôn được mọi người .................... (tín nhiệm, say mê) bầu vào chức vụ cao nhất.

Câu 7: Nhận xét về cách dùng các từ in nghiêng trong đoạn văn dưới đây:

“Cũng vì vậy nên nét bút Nguyễn Du là những nét bút có thần và bước vào thế giới Nguyễn Du là bước vào một thế giới sinh động và vô cùng phong phú. Ở đây có đủ buồn chán, giận hờn, đau đớn, chờ mong, thương nhớ, phấn khởi, hả hê, có cái khoan khoái trong một cảnh chơi xuân, có cái ghê rợn một đêm khuya vượt tường đi trốn, cái e lệ của tình yêu trong buổi đầu gặp gỡ, cái trắng trợn của một con trùm đĩ, cái tàn bạo của quan lại, cái thô bỉ của sai nha, cái khí thế ngang tàng của một tay anh hùng hảo hán.”.

(Hoài Thanh)

Bài tập viết

Câu 1: Khi viết bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội, không cần lưu ý điểm nào?

A. Xem lại các tác phẩm văn học có liên quan đến vấn đề đặt ra của đề bài

B. Xác định nội dung chính, từ đó lập dàn ý cho bài văn

C. Liên hệ, so sánh với thực tiễn đời sống và suy nghĩ của bản thân

D. Bám sát câu chữ, trung thành với các tác phẩm văn học

Câu 2: Hãy nêu một số vấn đề xã hội đặt ra trong các tác phẩm văn học mà em đã học hoặc đã đọc.

Câu 3: Lập dàn ý cho đề văn: Từ các đoạn trích đã được học “Hê-ra-clét đi tìm táo vàng” và “Chiến thắng Mtao Mxây”, viết bài văn nghị luận bàn về sức mạnh ý chí của con người trong cuộc sống.

Câu 4: Viết mở bài cho đề văn ở bài tập 3

Pages

Từ khóa tìm kiếm google:

Giải SBT Ngữ Văn 10 cánh diều, giải vở bài tập, Giải SBT Bài 1: Thần thoại và sử thi
Phần trên, hocthoi.net đã soạn đầy đủ lý thuyết và bài tập của bài học: Soạn SBT cánh diều ngữ văn 10 bài 1: Thần thoại và sử thi . Bài học nằm trong chuyên mục: Soạn SBT ngữ văn 10 tập 1 cánh diều. Phần trình bày do Ngọc Diễm tổng hợp và thực hiện giải bài. Nếu có chỗ nào chưa rõ, có phần nào muốn hiểu rộng thêm, bạn đọc vui lòng comment bên dưới. Ban biên tập sẽ giải đáp giúp các bạn trong thời gian sớm nhất.

Bài soạn các môn khác

Bình luận