Bài tập 5.
1. Quan điểm của người viết trong văn bản: Không nên trao quyền lựa chọn cho người khác, hãy tự lựa chọn và bước đi trên con đường của mình, dù phải vấp ngã và chịu đau đớn chính vì những lựa chọn đó.
2. Quan điểm trên của người viết được triển khai thành các luận điểm chính:
– Không nên trao quyền lựa chọn vào tay người khác. - – Cần dũng cảm tự lựa chọn, cần chấp nhận sự sợ hãi, sai lầm, vấp ngã để trưởng thành.
3. Những trải nghiệm cá nhân của người viết về sự lựa chọn sai lầm của bản thân là những bằng chứng cụ thể, sinh động, giúp chứng minh cho luận điểm: Cần dũng cảm tự lựa chọn và chấp nhận sai lầm, thất bại của mình.
4. Tác giả nêu nhận định thông qua các hình ảnh ẩn dụ. Chọn lựa được ví như một con đường, mỗi hành động tiếp theo sau chọn lựa được ví như việc rải từng viên gạch cho con đường hiện ra sau bờ bãi xa mù, có nghĩa là không ai có thể chỉ cho ta nên đi thế nào, cũng như lát gạch cho ta đi, ta cần tự lựa chọn và tự bước đi trên con đường của chính mình. Biện pháp so sánh được sử dụng trong câu:”Ta chỉ là một kẻ dại khờ, đeo lên mặt tấm băng đen và dùng bàn tay dò dẫm trong bóng tối của tương lai, vừa đi vừa xếp những viên gạch xuống con đường trước mặt” làm nổi bật nhận thức rằng tương lai là cái mơ hồ, không ai có thể biết trước, mỗi người đều không đoán định được con đường sắp tới của mình, nhưng dù vậy, vẫn phải tự bước đi. Nói chung, cốt lõi của nhận định là: Dù không thể biết trước tương lai sẽ ra sao, nhưng mỗi cá nhân đều phải tự lựa chọn, tự bước đi, chấp nhận vấp ngã và tự chịu trách nhiệm cho những lựa chọn của mình.
5. Đây là một câu hỏi mở. Mỗi HS có thể có câu trả lời khác nhau.
Bài tập 6.
1. Luận điểm chính của tác giả: Làm bất cứ công việc gì, dù là bình thường nhất, cũng cần làm tốt nhất công việc của mình, khi đó, mỗi người sẽ sống trọn vẹn chiều dài của cuộc đời.
2. Tác giả đã kể lại câu chuyện có thật mà mình đã chứng kiến về người thợ đánh giày – người đã đánh giày một cách say mê và hoàn hảo, khiến cho công việc này biến thành một kiệt tác nghệ thuật. Tác giả ngầm gửi tới người đọc một thông điệp: Khi ta làm bất cứ việc gì, chỉ cần ta thực hiện nó một cách chủ tâm, bằng sự say mê, chuyên nghiệp, thì công việc đó đều toát lên vẻ đẹp, đều tạo ra giá trị.
3. Trong đoạn văn thứ hai, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh. Việc quét đường được so sánh với Mi-ken-lăng-giơ đang vẽ tranh, Han-đeo và Bét-tô-venđang soạn nhạc; Sếch-xpia đang làm thơ. Khi so sánh công việc quét đường, vốn là một công việc rất thầm lặng, bình thường trong xã hội với việc sáng tạo nên kiệt tác của những nghệ sĩ nổi tiếng bậc nhất trên thế giới, tác giả nhằm thể hiện thông điệp: Mỗi công việc dù là giản dị, bình thường nhất đều có ý nghĩa, sánh ngang tầm với những công việc lớn lao, vĩ đại nhất, nếu như thực hiện nó một cách say mê, bằng cả trái tim. Trong mỗi con người, ai cũng có phẩm chất của người nghệ sĩ, của người sáng tạo, bởi bằng lao động, chúng ta tự sáng tạo nên cuộc sống của mình, trong từng khoảnh khắc. Ẩn sau hình tượng so sánh đó là một thông điệp về sự bình đẳng và là lời kêu gọi mỗi người hãy sống trọn vẹn nhất với mỗi phút giây trong cuộc đời mình.
4. Giọng điệu của người trần thuật trong văn bản là giọng điệu vừa thân mật, vừa hào sảng. Giọng điệu thân mật, tâm tình được tạo nên bởi người trần thuật xưng “tôi” vừa đối thoại, trò chuyện với người đọc, vừa chia sẻ chân thành những suy nghĩ của mình. Giọng điệu hào sảng, đầy nhiệt huyết và lôi cuốn được tạo nên bởi cấu trúc câu cầu khiến, biện pháp điệp ngữ, hình ảnh so sánh rất bay bổng, đẹp đẽ. Giọng điệu này là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng làm nên sức thuyết phục mạnh mẽ trong các bài diễn văn của Mác-tin Lu-dơ Kinh
5."Chiều dài của cuộc đời" ở đây nghĩa là kích thước của sức mạnh bên trong con người, được xây dựng dựa trên việc chấp nhận con người mình, hoàn cảnh sống của mình và sống trọn vẹn với những gì mình có, mỗi việc mình làm.
6. Đây là một câu hỏi mở. Mỗi HS có thể có một câu trả lời khác nhau.
Bài tập 7.
1. Các hình ảnh bình vàng, rượu trọng, mâm ngọc, nhằm quý biểu trưng cho danh lợi, quyền chức, đời sống xa hoa nơi cung đình. Ngược lại, các hình ảnh băng, tuyết, Hoàng Hà, Thái Hàng lại biểu trưng cho đường đời đầy khó khăn, thử thách. Thuyền, buồm mây ở đây biểu trưng cho lí tưởng, hoài bão được tự do tung hoành ngang dọc, vượt qua các thử thách để thực thi chỉ lớn.
2. Nhân vật trữ tình trong bài thơ được thể hiện qua các hành động: “Dân chén, ném đũa, nuốt không được”, “Vung gươm bốn mặt, lòng mênh mang”, “Rảnh rỗi buông câu bờ suối biếc”, “Chợt cưỡi thuyền mơ bên thái dương”, “Đè sóng cưỡi gió, hẳn có lúc”, “Treo thẳng buồm mây vượt bể khơi”.
Trong bốn câu thơ đầu, nhân vật trữ tình thể hiện cảm xúc phẫn uất, chua chát khi phải sống trong một cuộc sống xa hoa nhưng tù túng và khát vọng tự do tung hoành ngang dọc (“Dằn chén, ném đũa, nuốt không được/ Vung gươm bốn mặt, lòng mênh mang”). Bốn câu thơ tiếp theo thể hiện niềm mơ ước vượt thoát ra khỏi mọi khó khăn, trở ngại của cuộc sống để sống một cuộc sống tự do, theo đuổi lí tưởng, cũng có thể hiểu là khát vọng được phụng sự cho một bậc minh quân ("Chợt cưỡi thuyền mơ bên thái dương”). Hai câu thơ tiếp theo lại là một lời tự thán và câu hỏi đầy băn khoăn về những lựa chọn mà mình nên theo đuổi. Hai câu thơcuối cùng với một giọng điệu hào hùng, đã khẳng định ý chí và khát vọng mãnh liệt muốn vượt qua mọi trở ngại, thách thức. Có thể nói, mạch cảm xúc xuyên suốt bài thơ là sự xung đột giữa một bên là con người mang lí tưởng cao đẹp, khát vọng tự do và một bên là cuộc sống chật chội, tù túng, đầy những khó khăn, thách thức, trong đó tất cả những cám dỗ của vật chất hay những trở ngại trên đường đời đều không thể đè bẹp được hoài bão và ý chí kiên cường của con người.
3. Có thể thấy, nhân vật trữ tình trong cả hai bài thơ đều được miêu tả trong trạng thái đứng trước con đường nhiều lối rẽ, nhiều lựa chọn. Nhưng, cảm xúc, tâm thế của hai nhân vật trữ tình rất khác nhau. Trong bài thơ Hành lộ nan của Lý Bạch, nhân vật trữ tình thể hiện một ý chí mạnh mẽ và lựa chọn quyết liệt để đi một con đường dẫu nhiều sóng gió, còn trong bài Con đường không chọn, nhân vật trữ tình lại hiện lên như một kẻ đầy băn khoăn, do dự, phân vân với mỗi lựa chọn của mình. Hai trạng thái đó cũng là những trạng thái nhân sinh phổ quát của con người nói chung khi đứng trước những lối rẽ khác nhau trong cuộc đời mình.
4. Hình ảnh con đường trong bài thơ được miêu tả thông qua các chi tiết:“Băng đầy sông, khó nỗi vượt Hoàng Hà!/ Tuyết mù trời, không đường lên Thái Hàng! trong lời cảm thán: “Đường gian nan. Đường gian nan!/ Bao ngả rẽ? Nay đâu rồi?". Qua những chi tiết và lời cảm thán này, có thể thấy con đường ở đây tượng trưng cho đường đời nhiều khó khăn, chông gai, nhiều ngả rẽ, thử thách ý chí của con người. Trong bài thơ Con đường không chọn, con đường được miêu tả qua các chi tiết: “lối rẽ trong rừng vàng rực lá”, “khúc quanh giữa bụi bờ chìm khuất”, “cỏ rậm muốn mời chân bước”, “thảm lá chưa chân ai hằn dấu thẫm”. Con đường ở đây được miêu tả như một hành trình vô định, mơ hồ, với nhiều lối rẽ mời gọi bước chân của con người. Cùng sử dụng hình tượng con đường để miêu tả hành trinh cuộc đời, nhưng ý nghĩa và những liên tưởng, cảm xúc mà hai hình tượng gợi nên ất khác nhau, thể hiện những tâm t trong hai bài thơ lại rất khác nhau, thể hiện những tâm trạng và lựa chọn rất khác nhau của nhân vật trữ tình.
5. Đây là một câu hỏi mở. Mỗi HS có thể có câu trả lời riêng của mình. Có thể thấy, trong văn bản Một đời như kẻ tìm đường, tác giả cho rằng cuộc đời là một hành trình một chiều, được dẫn dắt bởi những động lực mà con người khó có thể biết, và mỗi lựa chọn của con người không quan trọng bằng việc người đó sống như thế nào, ứng xử ra sao với mỗi lựa chọn đó của mình. Trong khi đó, ở bài thơ Hành lộ nan, tác giả lại thể hiện quan niệm: Đường đời nhiều gian nan, thử thách, nhiều khúc quanh nhưng không gì có thể khuất phục được khát vọng tự do và ý chí lớn lao của con người. Ở bài thơ Con đường không chọn, cuộc đời lại được ví như một hành trình nhiều ngả rẽ, dù chọn lối nào, ta cũng không thoát khỏi trạng thái phân vân, do dự. Mỗi tác phẩm đều thể hiện những quan niệm khác nhau về cuộc sống, về sự chọn lựa cũng như những hành xử khác nhau đối với mỗi chọn lựa của con người.
1. Luận điểm chính được tác giả trình bày trong văn bản là: Mỗi hành động rất nhỏ của con người để bảo vệ môi trường đều có thể tạo nên một sự thay đổi lớn lao cho Trái Đất.
Luận điểm này được triển khai dựa trên các bằng chứng: Câu chuyện về An-tô-ni-ô Vi-xen-tê ở Bra-xin muốn trồng lại rừng ở xứ rừng, câu chuyện về cặp vợ chồng già Thơ-bát và Thô-xơn-xa-gan mất 15 năm biển sa mạc thành ốc đảo, câu chuyện về ông già 78 tuổi Vương Thiên Xương cùng người con trai Vương Ngân Cát đã trồng cây trong suốt 30 năm để tạo nên một ốc đảo rộng 500 ha ở sa mạc Đằng Cách Lý, đông bắc Trung Quốc. Đây là những bằng chứng cụ thể, khách quan, có thể kiểm chứng và đồng thời gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc, vì thế là những bằng chứng rất có sức thuyết phục.
2. Có nhiều cách để sơ đồ hoá các thông tin trong văn bản. Dưới đây là một gợi ý:
3. Tác giả đề cập các nhân vật, sự kiện có thực trong cuộc sống: An-tô-ni-ô Vi-xen-tê ở Bra-xin đã có ý tưởng “điên rồ” muốn trồng lại rừng ở xứ rừng, khi diện tích đất rừng ngày càng thu hẹp lại; cặp vợ chồng già Thơ-bát và Thô-xơn-xa-gan đã mất 15 năm biến sa mạc thành ốc đảo; ông già 78 tuổi Vương Thiên Xương cùng con trai đã trồng cây suốt 30 năm để tạo nên một ốc đảo ở vùng đông bắc Trung Quốc. Các nhân vật này đã lựa chọn một cách sống khác, có thể đi ngược lại với đám đông, nhưng họ đã kiên trì theo đuổi lựa chọn đó trong suốt cuộc đời mình, và đã làm nên những kì tích vĩ đại. Đây có thể nói là những câu chuyện truyền cảm hứng, khiến cho ta có thể dũng cảm và kiên trì hơn khi theo đuổi những lựa chọn của mình.
4. Văn bản sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ là các số liệu. Các con số như “15 năm trồng cây để biến sa mạc thành ốc đảo”, “trồng cây trong suốt 30 năm” cho thấy sự kiên trì của các nhân vật trong câu chuyện. Các con số “50.000 cây”, “ốc đảo rộng 500 ha ở sa mạc Đẳng Cách Lý” cho thấy thành tích phi thường của các nhân vật trong các câu chuyện. Có thể nói, các số liệu cụ thể, xác thực, có thể kiểm chứng này đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc.
5. Đây là một câu hỏi mở. Mỗi HS có thể đưa ra câu trả lời khác nhau. Có thể tham khảo gợi ý:
– Số phận của Trái Đất phụ thuộc vào hành động của mỗi người. Nếu mỗi người đều kiên trì gìn giữ sự sống trên Trái Đất thì có thể làm cho Trái Đất hồi sinh.
– Hãy kiên trì và quyết tâm theo đuổi lí tưởng sống đúng đắn của mình, dù có thể bị coi là khác biệt, thậm chí “điên rồ”
– Khi quyết tâm và kiên trì thực hiện những việc nhỏ, ta có thể tạo nên những thành quả lớn.
Bình luận