Bài tập 1.
1. Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền trong SGK có các nhân vật: Giăng Van-giăng, Gia-ve, Phăng-tin. Ngoài ra, còn có bà xơ Xem-pơ-lít – người chứng kiến mọi chuyện xảy ra trong những giây phút lâm chung của Phăng-tin. Mối quan hệ giữa các nhân vật này được thể hiện như sau:
- Giăng Van-giăng với Gia-ve: Trước đoạn trích này, Giăng Van-giăng (mang tên Ma-đơ-len) là thị trưởng thành phố, còn Gia-ve chỉ là một viên thanh tra. Trong đoạn trích, không còn ông thị trưởng Ma-đơ-len nữa, mà chỉ là Giăng Van-giăng – người tù khổ sai bỏ trốn, bấy lâu bị truy nã, giờ đây sắp bị Gia-ve bắt để tống vào nhà giam.
– Giăng Van-giăng với Phẳng-tin: Phăng-tin từng là công nhân trong nhà máy của ông Ma-đơ-len (Giăng Van-giăng), nhưng đã bị đuổi việc, rơi vào hoàn cảnh hết sức bi đát. Phăng-tin chết, Giăng Van-giăng cảm thấy có bổn phận lương tâm với người đàn bà bất hạnh này.
– Phăng-tin với Gia-ve: Phăng-tin từng bị Gia-ve bắt vào tù. Lần gặp lại này, Phăng-tin vô cùng sợ hãi. Việc Phăng-tin bị ngã đập đầu vào thành giường rồi từ thái độ của Gia với thác hai thán qua đời có căn nguyên từ thái độ của Gia-ve.
2. Trong đoạn trích, nhân vật Gia-ve được khắc hoạ khá đậm nét từ bộ mặt, giọng nói, cái nhìn đến hành động. Dù vậy, Gia-ve cũng run sợ trước hành động quyết liệt, dứt khoát của Giăng Van-giăng. Nhân vật Gia-ve là một con người không có nhân tính, thể hiện quyền lực của một kẻ lạnh lùng, vô tình, tàn nhẫn.
3. Sự xuất hiện của Gia-ve khiến Phăng-tin cảm thấy như gặp ác mộng. Cơn xúc động và sợ hãi lên đến tột cùng khi Phăng-tin chứng kiến cảnh Gia-ve thể hiện quyền uy trước ông thị trưởng bằng những hành động rất hung hãng, còn ông thị trưởng thì cúi đầu cam chịu. Cái chết của Phăng-tin như là một kết cục tất yếu của sự giáp mặt giữa chị với Gia-ve.
4. Trong lời kể, người kể chuyện thể hiện thái độ ác cảm rất rõ với Gia-ve qua cách xưng hô, từ ngữ được dùng để miêu tả, sự hoà nhập điểm nhìn của người kể chuyện với điểm nhìn của Phăng-tin khiến cho Gia-ve hiện ra như một hung thần, một ác quỷ. Điều này sẽ góp phần chi phối thái độ của người đọc đối với nhân vật Gia-ve.5. Trong đoạn trích, ta biết Giăng Van-giăng đã nằm trong tay Gia-ve sau bao nhiều năm trốn truy nã. Giăng Van-giăng biết rõ rằng, Gia-ve đang nóng lòng bắt ông. Lời cầu khẩn của Giăng Van-giăng liên quan đến việc tìm con cho Phăng-tin bị Gia-ve bác bỏ, giễu cợt. Như vậy, Gia-ve đang ráo riết thực hiện việc bắt Giăng Van-giăng để tống vào nhà tù.
6. Trong câu “Giăng Van-giăng – từ giờ chúng ta cứ cái tên này mà gọi – đứng dậy”, thành phần được đặt giữa hai dấu gạch ngang là thành phần chêm xen. Thành phần này xác nhận một thực tế: ông Ma-đơ-len – thị trưởng của thành phố Mông-tơ-rơi – thực chất là Giăng Van-giăng, một người tù khổ sai.
Bài tập 2.
1. Có mặt tại bệnh xá nơi Phăng-tin được cứu chữa, Giăng Van-giăng hết lòng cưu mang Phăng-tin. Ông trấn an Phăng-tin vì sự có mặt của Gia-ve, hạ mình xin Gia-ve cho đi tìm con của Phăng-tin. Khi Phăng-tin chết vì hoảng loạn, Giăng Van-giăng trấn áp Gia-ve để thực hiện nghĩa vụ lương tâm đối với Phăng-tin. Ông đã thì thầm bên tại Phăng-tin những lời cuối cùng để người chết thanh thản ra đi.
2. Trong đoạn trích này, bà xơ Xem-pơ-lít chỉ là nhân vật phụ nhưng trở nên rất quan trọng: là người duy nhất chứng kiến cảnh Giăng Van-giăng “ghé vào tai Phăng-tin thì thầm”, và chính bà cũng là người duy nhất đã "trông thấy rõ ràng một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt đờ đẫn, ngạc nhiên của chị". Chỉ qua lời của bà xơ – một người đã hi sinh cả đời mình cho Chúa, người không bao giờ biết dối trá – thì điều lạ lùng như thế mới trở nên đáng tin.
3. Đọc đoạn trích, hãy chú ý chi tiết: khi Giăng Van-giăng ghé vào tai Phăng-tin thì thầm những lời gì đó, “một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt đờ đẫn, ngạc nhiên” của người đã chết. Đây thực sự là một chi tiết lạ lùng, khó xảy ra trong đời thực. Có lẽ đây cũng là biểu hiện của cảm hứng lãng mạn – yếu tố xuyên suốt tiểu thuyết Những người khốn khổ của Vich-to Huy-gô.
4. Ở đoạn trích, có một số câu hỏi trong lời kể chuyện: “Ông nói gì? Con người khổ sở ấy có thể nói gì với người đã chết? Những lời ấy là lời gì vậy? [...] Kẻ đã chết có nghe thấy không?". Những điều Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin dĩ nhiên không ai nghe thấy, kể cả người kể chuyện ngôi thứ ba vốn là người thường biết hết mọi chuyện. Việc hạn chế quyền năng của người kể chuyện ngôi thứ ba khiển cho những điều Giăng Van-giăng nói với người đã chết mãi mãi là điều bí mật và nụ cười của Phăng-tin gợi nhiều ý nghĩa.
5. “Giờ anh muốn làm gì thì làm” là câu nói thể hiện thái độ chủ động chấp nhận của Giăng Van-giăng trước những gì kinh khủng đang chờ đợi ông. Ông không hề sợ hãi trước uy lực của Gia-ve cũng như cảnh tù đày sắp phải nếm trải. Giăng Van-giăng đang là người thực sự có uy quyền chứ không phải Gia-ve.6. Trong câu này, cụm từ “người độc nhất chứng kiến cảnh ấy" là thành phần chêm xen. Thành phần này làm rõ vai trò của bà xã Xem-pơ-lít trong việc nắm giữ những thông tin cuối cùng về Phăng-tin, điều không ai có thể biết được.
Bài tập 3.
1. Qua lời kể của người kể chuyện ngôi thứ ba, ta được biết những điều đang diễn ra: Thanh đi làm trên tỉnh, tranh thủ về thăm bà, gặp lại những đồ vật thân thuộc với cảm giác thư thái, dễ chịu; sự âu yếm, dịu dàng của bà và tình thương mến, ấm áp của cháu; Thanh nhớ về những gì từng gắn bó thân thương, loáng thoáng nghe và đoán có ai đang “làm bếp” cùng bà.
2. Những điều Thanh cảm thấy và tự hỏi lòng mình, thể hiện qua một số câu: “Thanh vắng nhà đã gần hai năm nay, vậy mà chàng có cảm giác như vẫn ở nhà tự bao giờ";"Lần nào trở về với bà chàng, Thanh cũng thấy bình yên và thong thả như thế”;“Thanh bỗng thấy mệt mỏi”;“Thanh nhắm mắt ngửi hương thơm và nhớ đến cái cây ấy chàng thường hay chơi dưới gốc nhặt hoa”: “Thanh thấy tâm hồn nhẹ nhóm tươi mát như vừa tắm ở suối”;... Chỉ có người kể chuyện ngôi thứ ba mới có thể tường tận tất cả diễn biến trong tâm trạng sâu kín của Thanh.
3. Khi Thanh nằm nghỉ, bỗng nghe loáng thoáng tiếng quen thuộc của một người khác đang làm cơm cùng bà. Nhan đề Dưới bóng hoàng lan dễ khiến người đọc nghĩ tới một câu chuyện tình cảm đôi lứa nhẹ nhàng. Nhân vật xuất hiện ở đầu truyện là một chàng trai thì người có tiếng “quen quá” kia hẳn phải là một cô gái, nhất là gắn với việc "làm bếp” cùng bàn
4. Đời sống tình cảm của nhân vật được nhà văn chú ý miêu tả qua một số yếu tố: cảm xúc của Thanh khi trở về, nhìn lại căn nhà, khu vườn thân quen; sự chăm sóc của bà dành cho Thanh và những tình cảm của Thanh đối với bà; những lời đối hồi ức đẹp đẽ của thoại thân tình, trìu mến giữa hai bà cháu; hồi ức đẹp đẽ của Thanh về những ngày sống với bà ở căn nhà, khu vườn thân thuộc này.
5. Giọng văn của đoạn trích nhẹ nhàng, trầm ấm, đầy chất trữ tình, được tạo nên bởi các yếu tố: cảm xúc nâng niu, thương mến đối với sự vật được miêu tả; từ ngữ miêu tả có tính chất thanh nhẹ, tạo cảm giác thân quen, gần gũi; tiết tấu các câu văn chậm rãi, nhịp nhàng, êm dịu,...
Bài tập 4.
1. Ở đoạn trích này, cây hoàng lan xuất hiện nhiều chỗ, đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện mối quan hệ tình cảm giữa hai nhân vật Thanh và Nga: chứng kiến Thanh và Nga bên nhau từ thuở ấu thơ; kết nối tình cảm giữa đôi trai gái; giúp nhân vật bộc lộ tình cảm của mình;...
2. Khi bà của Thanh hỏi về chuyện hoa hãy còn non sao lại hải sớm, Nga đã trả lời bà bằng một câu mang hàm ý kín đáo:“Anh con hải đẩy ạ” kèm theo cái nhìnhướng vào Thanh và nụ cười đầy ý nhị. Chú ý việc đặt lời của Nga trong ngoặc kép, những từ ngữ có tính ẩn dụ như hoa non, hái,... Câu trả lời của Nga đã hé lộ tình cảm mới chớm nở e ấp giữa nàng và Thanh.
3. Thanh và Nga, lòng đã hướng về nhau, bộc lộ tình cảm của mình bằng nhiều cách: bằng sự cảm nhận ("Có lúc gần nhau, Thanh thấy mái tóc Nga thoang thoảng thơm như có giắt hoàng lan”; “Có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây, khiến chàng vương phải”,...); bằng lời nói (“Những ngày em đến đây hải hoa, em nhớ anh quá...); bằng cử chỉ ("Thanh dắt nàng đi xem vườn”; “chàng vít một cành lan xuống giữ ở trong tay để Nga tìm hoa”;...).
4. “Có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây, khiến chàng vương phải.” là câu văn miêu tả trạng thái tình cảm của Thanh. Đó là một trạng thái mơ hồ, không rõ hình rõ nét, nhân vật cũng chưa thể ý thức đầy đủ. Nó vấn vương, thoang thoảng như mùi hương, dịu dàng nhưng ngọt ngào, trở nên ám ảnh trong tâm hồn nhân vật.
5. Những câu văn này tập trung miêu tả tâm trạng của nhân vật Thanh. Thường, những gì diễn ra trong nội tâm của con người, người ngoài không thể biết được. Nhưng ở lời kể của người kể chuyện ngôi thứ ba, những vui buồn, nhớ mong,... của nhân vật vẫn được nói ra tường tận. Đó chính là biểu hiện “quyền năng” có vẻ như không giới hạn của người kể chuyện ngôi thứ ba.
Bình luận