Bài tập 5.
1. Tóm tắt tình huống được tái hiện trong cảnh tuồng Hồn thiêng đưa đường: Kim Lân đưa hoàng tử con vua Tề vượt vòng vây của bọn gian thần, đương lúc quẫn bách, bỗng gặp hồn Linh Tá hiển linh thành ngọn lửa hồng soi tỏ đường đi. Nhờ đó, Kim Lân thoát và đến được thành Sơn Hậu.
2. Những lời thoại cho biết về không gian, thời gian, tình thế diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Kim Lân và hồn Linh Tá:
– Phá muộn vòng quân sĩ
Thằng trăm trận pháo tên,
Kiếm Thứ phi kiếm chẳng thấy tin,
Tìm mẫu hậu tìm không ra tích
Thương tử hoàng còn nhỏ
Khát sữa lại đói cơm.
Cắn máu tay thấm giọt nhi long
Nhất thời trợ miễn ư cơ khát
Sau lưng không tiếng nhạc
Trước mắt thấy đầu non
Lạc vào chốn sơn trung
bạn tác bước trồi đây) HỮU Đã không dời nước bước (rồi đây!)
– Nay ta giúp vận Tề quân
Sao lại tuyệt kì đăng hoa Ũ SỐNG
– Đoán bên non thấy ngọn hoả hào
Giục tuấn mã vội vàng theo dõi.
Như vậy, chỉ qua lời thoại, người đọc, người xem có thể hình dung được rất rõ toàn bộ bối cảnh diễn ra sự việc. Điều này càng cho thấy nét đặc trưng của lời thoại trên sân khấu. Ở trong văn bản truyện, thường bối cảnh (không gian, thời gian, tình huống) được người đọc nhận biết nhờ lời của người kể chuyện.
3. Đoạn trích đã đưa lại cho người đọc, người xem ấn tượng sâu sắc về nghĩa vua tôi và tình huynh đệ:
– Kim Lân không quản ngại hiểm nguy để cứu vãn triều Tề trong cơn biến loạn. – Kim Lân sẵn sàng lấy máu mình mớm cho hoàng tử đang đói khát ("Cắn máu tay thấm giọt nhi long/ Nhất thời trợ miễn ư cơ khát").– Linh Tá dù đã bị chém rơi đầu vẫn không quên lời “đoan thệ" quyết giúp Kim Lân phò vua cứu nạn.
– Kim Lân thương xót người bạn đã bỏ mình vì nghĩa ("Thống thiết các can tràng đoạn đoạn/ Sầu đê mê ngọc lệ sái uông uông") hẹn gặp nhau ở thành Sơn Hậu (“Nơi Sơn Hậu em tìm qua đó”).
Theo quan điểm đạo đức phong kiến, các nhân vật rất đáng ngợi ca vì đã sống theo những chuẩn mực ứng xử của người quân tử. Với người đọc, người xem ngày nay, tuy các chuẩn mực ứng xử này đã trở nên xa lạ nhưng phẩm chất trung thành, tận tuỵ ở một con người sống có niềm tin thì vẫn có thể gây được niềm xúc động lớn.
4. Ngôn ngữ giữa đoạn trích Hồn thiêng đưa đường và đoạn trích Huyện đường có sự khác biệt lớn: - Ở Huyện đường, đó là thứ ngôn ngữ gần với ngôn ngữ giao tiếp đời thường, mang tính chất bình dân, ít từ Hán Việt, không có điển cố, dễ hiểu. - Ở Hồn thiêng đưa đường, đó là thứ ngôn ngữ đầy tinh ước lệ, kiểu cách, sang trọng, dày đặc từ Hán Việt và nhiều điển cổ, người đọc phải có kiến thức sâu mới tiếp nhận được đầy đủ những tầng nghĩa hàm chứa trong đó.
Sự khác biệt về ngôn ngữ này cho thấy những đặc điểm riêng của tuồng dân gian (tuồng hài) và tuồng cung đình (tuồng thầy, tuồng bác học), vốn là hai loại tuồng diễn những tích khác nhau, nhằm đến những mục đích khác nhau, thậm chỉ được viết bởi những người có học vấn và quan niệm ngôn ngữ khác nhau.
5. Người đọc, người xem ngày nay có thể gặp phải nhiều khó khăn khi tiếp cận với nghệ thuật tuồng truyền thống. Chẳng hạn:
– Tuồng nảy sinh và phát triển trong một môi trường văn hoá – xã hội đặc thù, kể những câu chuyện của một thời xa xưa, không dễ tìm được sự đồng điệu ở người đọc, người xem thời hiện đại.
– Tính ước lệ của sân khấu tuồng rất cao, phải hiểu đầy đủ những quy tắc, quan niệm chi phối nó thì mới có thể thưởng thức được cái hay của tuồng một cách trọn vẹn.
– Ngôn ngữ của tuồng (nhất là tuồng cung đình) xa lạ với ngôn ngữ giao tiếp của đời sống thực, vì vậy, thường gây cảm giác rắc rối, khó hiểu.
Như vậy, để hiểu tuồng, yêu tuồng, cần phải trang bị rất nhiều hiểu biết về lịch sử, văn hoá, ngôn ngữ và đặc biệt phải có một thái độ trân trọng thực sự đối với những di sản tinh thần quý báu mà ông cha đã để lại.
Bài tập 6.
1. Đoạn trích đưa đến thông tin về vai hề và các loại nhân vật trào phúng trong nghệ thuật chèo.2. Những đặc điểm, tính chất, ý nghĩa của vai hề trên sân khấu chèo đã được
nói đến trong đoạn trích:
– Vai hề bao gồm “hề mồi (hể nhảy múa không dùng gậy)” và “hề gậy (hể nhảy múa với gậy), thường là người hầu”.
– Vai hề gắn với tiếng cười, góp phần tạo nên những cung bậc cảm xúc đa dạng trong vở chèo và ở người xem chèo.
– Vai hề châm biếm, đả kích những thói hư tật xấu tồn tại ở nhiều tầng lớp trong xã hội phong kiến, đặc biệt là tầng lớp cai trị, góp phần tạo nên tính hiện thực củamvở chèo.
3. Khi nói về vai hề trên sân khấu chèo truyền thống của Việt Nam, tác giả đã mở rộng sự liên hệ, so sánh với sân khấu cổ truyền của các nước Đông Nam Á, với những trò diễn hề trong cung điện của vua chúa châu Âu. Sự liên hệ, so sánh ấy cho thấy nét tương đồng của nghệ thuật sân khấu ở những nền văn hoá khác nhau, từ đó ngầm khẳng định rằng chèo không phải là một loại nghệ thuật dị biệt và chèo hoàn toàn có thể tìm được sự đồng cảm của người xem ngoại quốc (hoàn toàn có thể nói điều này nếu xét mục đích xuất bản cuốn sách song ngữ Chèo, như thông tin chứa đựng trong câu hỏi cho biết).
4. Có nhiều phân cảnh trong các vở chèo cổ được biểu diễn trên sân khấu như một tác phẩm độc lập: Xã trưởng – Mẹ Đốp, Lão Say, Cu Sứt, Thầy bói đi chợ,... Người xem có thể thưởng thức trọn vẹn cái hay của chúng mà không cần nắm được toàn bộ tích trò (tích truyện) của vở diễn. Hiện tượng này liên quan đến nhận định sau đây trong đoạn trích: “Đôi khi những nhân vật này gây ra tiếng cười không liên quan trực tiếp đến vở diễn, vì hề (hay thầy bói, lão say,...) có thể bình luận về các nhân vật, về xã hội nói chung. Có thể xác định như vậy là vì trong câu dẫn trên, tác giả đã dùng cụm từ “không liên quan trực tiếp đến vở diễn”. Một khi trong vở chèo có những nội dung hay những cảnh, màn, lớp đi chệch khỏi cốt truyện chung của tích chèo thì kịch bản chèo có thể được thu gọn lại và các cảnh, màn, lớp nói trên có đủ tư cách tồn tại như những tiểu phẩm độc lập.
5. Trả lời câu hỏi này theo cảm nhận chân thật nhất của mình về sân khấu chèo. Cần lưu ý là nội dung chèo rất gần gũi với cuộc sống của người bình dân xưa và trong chèo có nhiều loại vai được diễn theo các quy ước khác nhau, với những đạo cụ đặc trưng cho mỗi vai.
Bình luận