Danh mục bài soạn

Văn mẫu lớp 8: Số phận của người dân thuộc địa qua bài Thuế máu

Chuyên mục: Văn mẫu lớp 8

Đề bài: Số phận của người dân thuộc địa qua bài Thuế máu. Theo đó, hocthoi gửi đến các bạn 3 dàn ý + bài văn mẫu để các bạn có thể tham khảo. Từ đó, giúp các bạn có những bài văn hay nhất cho riêng mình

[toc:ul]

Bài mẫu 1: Số phận của người dân thuộc địa qua bài Thuế máu

Số phận của người dân thuộc địa qua bài Thuế máu

Dàn ý

1. Mở bài

  • Giới thiệu văn bản và chủ đề cần phân tích.

2. Thân bài:

a. Số phận của người dân thuộc địa trong "Chiến tranh và người bản xứ":

  • Trước chiến tranh người dân An Nam, những kẻ da đen bẩn thỉu, chỉ xứng đáng "kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị".
  • Sau khi chiến tranh xảy ra bỗng được tôn làm những "đứa con yêu", những người "bạn hiền", thậm chí được ban cả cái danh hiệu "chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do".

= > Trở thành những vật hy sinh, những lá chắn xương thịt trong các trận chiến ác liệt sắp tới.

Hậu quả tồi tệ của cái vinh dự trời ơi mà các quan cai trị ban cho:

  • "họ phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ để vượt đại dương, phơi thây trên các bãi chiến trường châu u".
  • Chịu vong mạng trong những trò thử nghiệm phóng ngư lôi và "vinh dự" được "xuống đáy biển bảo vệ tổ quốc của những loài thủy quái",...
  • Những con người ở lại mang tiếng làm "hậu phương" vững chắc phục vụ chiến đấu, cũng không thoát khỏi số phận bi thảm, khi phải chịu cái chết đau đớn khi làm việc đến kiệt sức trong các xưởng chế tạo thuốc súng, hít vào biết bao nhiêu hơi độc, rồi cuối cùng chết đi vì bệnh tật ung thư phổi.

Giọng điệu mỉa mai, châm biếm, trào phúng đặc sắc cùng với những mỹ từ dành cho bọn đế quốc tàn độc đã làm nổi bật được chủ đề của cả đoạn trích, kết hợp với những số liệu rõ ràng cụ thể rằng "tổng cộng có 70 vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy tám vạn người đã không còn được trông thấy mặt trời trên quê hương mình nữa" càng gia tăng thêm ấn tượng đối với độc giả về số phận bi thảm của những người lính bất đắc dĩ xuất thân từ các thuộc địa.

b. Số phận của những người dân thuộc địa trong "Chế độ lính tình nguyện":

  • Những con người vốn được xem là "bạn hiền", "đứa con yêu" lại bị "lùng ráp", bắt trói, nhốt vào các trại lính tập trung như kẻ tù.
  • Những vị "chúa tỉnh" cũng nhân cơ hội này mà vòi vĩnh làm tiền.
  • Người dân bản xứ đã tự tìm cho mình những giải pháp để cứu thoát bản thân từ việc liều lĩnh bỏ trốn, hay đến cả việc dây vào người những căn bệnh nặng nhất như đau mắt toét mủ bằng cách tự xát vào mắt những chất độc hại như vôi sống hay mủ bệnh lậu.

c. Số phận của những con người "tình nguyện" lên chiến trường và may mắn sống sót trở về:

  • Họ lập tức bị những kẻ cầm quyền đá về vị trí của những kẻ An Nam, da đen bẩn thỉu, tiếp tục kéo xe và chịu đòn roi như những nô lệ, còn những lời hứa hẹn hoa mỹ gì đó lại dường như biến mất tựa một "phép lạ".
  • Những người lính chiến thắng trở về đã được hưởng một chế độ đãi ngộ đặc biệt khi bị lột hết của cải, quần áo, bị đối xử như giống heo bò, và bị đánh đập như những loài súc vật.

3. Kết bài:

  • Nêu cảm nhận chung.

Bài viết

Hồ Chí Minh (1890-1969) không chỉ có một sự nghiệp chính trị, quân sự hết sức vẻ vang, chói lòa soi sáng bước đường giải phóng của cả dân tộc Việt Nam, mà bên cạnh đó sự nghiệp văn chương của Người cũng rất đồ sộ và phong phú với nhiều thể loại khác nhau, mà mục đích chính là để phục vụ cho đường cách mạng, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, là thứ vũ khí sắc bén có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với dư luận và công chúng không chỉ riêng ở Việt Nam mà còn là ở cả trên thế giới. Bản án chế độ thực dân Pháp là một trong những tác phẩm nổi bật nhất của Hồ Chí Minh những năm còn hoạt động tại Pháp, dưới tên Nguyễn Ái Quốc, trong đó chương đầu tiên của tác phẩm có tên Thuế máu, đã phản ánh rất rõ số phận của những người dân thuộc địa dưới các cuộc chiến tranh phi nghĩa của đế quốc.

Trong phần đầu tiên "Chiến tranh và người bản xứ" Hồ Chí Minh đã nêu bật được sự bỉ ổi, thái độ hai mặt của các quan cai trị trị thực dân trong hai thời điểm là trước và sau khi chiến tranh xảy ra. Nếu trước chiến tranh người dân An Nam, những kẻ da đen bẩn thỉu, chỉ xứng đáng "kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị", thì đột ngột sau khi chiến tranh xảy ra họ bỗng "vinh dự" được các quan tôn làm những "đứa con yêu", những người "bạn hiền", thậm chí được ban cả cái danh hiệu "chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do", trong khi chính bản thân những người bản xứ cũng chẳng hiểu, chẳng biết mình đang bảo vệ công lý tự do ở chốn nào. Sau khi sử dụng hết những mánh lới tâng bốc, lời lẽ hoa mỹ giả tạo để dỗ ngọt những người bản xứ, biến họ thành những vật hy sinh, những lá chắn xương thịt trong các trận chiến ác liệt sắp tới, những vị quan toàn quyền, quan cai trị đã nhanh chóng đẩy những "chiến sĩ" này ra chiến trường, để chiến đấu vì một cái công lý và tự do mà họ chưa bao giờ được hưởng. Hậu quả tồi tệ của cái vinh sự trời ơi mà các quan cai trị ban cho người bản xứ ấy là việc "họ phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ để vượt đại dương, phơi thây trên các bãi chiến trường châu u", chịu vong mạng trong những trò thử nghiệm phóng ngư lôi và "vinh dự" được "xuống đáy biển bảo vệ tổ quốc của những loài thủy quái", ấy rồi một số khác thì chết tại những vùng đất xa lạ, mà trước khi chết họ còn không hiểu tại sao bản thân mình lại phải chịu số phận bi thảm như thế, vĩnh viễn chôn thân nơi cách xa Tổ quốc cả hàng vạn dặm trường. Sự bịp bợm và giả nhân giả nghĩa của bọn cầm quyền, tay sai đã đẩy người dân bản xứ trở thành những vật tế, vật hy sinh để giành về cho kẻ cầm quyền những lợi ích, những vật chất từ bãi chiến trường đỏ máu của người dân thuộc địa. Không chỉ những kẻ bước chiến trường, chịu vong mạng nơi đất khách vì những vinh dự hão huyền, giả tạo bọn đế quốc cố tình vun đắp, mà những con người ở lại mang tiếng làm "hậu phương" vững chắc phục vụ chiến đấu, cũng không thoát khỏi số phận bi thảm, khi phải chịu cái chết đau đớn khi làm việc đến kiệt sức trong các xưởng chế tạo thuốc súng, hít vào biết bao nhiêu hơi độc, rồi cuối cùng chết đi vì bệnh tật ung thư phổi. Cũng chẳng khá khẩm hơn là bao so với kẻ bị bom đạn vùi chết trên chiến trường. Chung quy lại trong chiến tranh người dân bản xứ chỉ có một số phận duy nhất là trở thành kẻ hy sinh, vật tế sống cho những tham vọng bành trướng của đế quốc, và kết cục thì luôn kết thúc bằng những cái chết đầy đau đớn, xót xa. Giọng điệu mỉa mai, châm biếm, trào phúng đặc sắc cùng với những mỹ từ dành cho bọn đế quốc tàn độc đã làm nổi bật được chủ đề của cả đoạn trích, kết hợp với những số liệu rõ ràng cụ thể rằng "tổng cộng có 70 vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy tám vạn người đã không còn được trông thấy mặt trời trên quê hương mình nữa" càng gia tăng thêm ấn tượng đối với độc giả về số phận bi thảm của những người lính bất đắc dĩ xuất thân từ các thuộc địa.

Trong phần thứ hai của văn bản "Chế độ lính tình nguyện", số phận của những người dân thuộc địa càng được bộc lộ một cách rõ ràng, thử hỏi trong 70 vạn lính bản xứ đặt chân lên nước Pháp có bao nhiêu người thực sự tình nguyện, hay thực tế đó chỉ là những "sự tình nguyện" đầy ép buộc, bất đắc dĩ mà những kẻ cầm quyền phải cố tung ra những lời thật hoa mỹ, tốt đẹp cốt che giấu đi cái sự bẩn thỉu, tàn ác của chúng trong việc ép người dân thuộc địa ra chiến trường trở thành tấm bia thịt cho đế quốc trên các chiến trường châu u. Chẳng hiểu kiểu gì mà những con người vốn được xem là "bạn hiền", "đứa con yêu" lại bị "lùng ráp", bắt trói, nhốt vào các trại lính tập trung như kẻ tù, đồng thời những vị "chúa tỉnh" cũng nhân cơ hội này mà vòi vĩnh làm tiền, kẻ nào không muốn đi lính "tình nguyện" thì cứ việc xì tiền ra, kẻ nào cứng đầu cứng cổ, thì sẽ nhận được ngay những chuyện rắc rối xảy ra với người thân, hoặc được nếm hẳn mùi nhà tù cho đến khi buộc phải lựa chọn giữa việc xì tiền ra hoặc là trở thành lính tình nguyện. Rõ ràng những người dân bản xứ cũng đủ thông minh để biết rằng trở thành lính tình nguyện tức là phải đối mặt với nguy cơ mất mạng trên một chiến trường xa lạ nào đó bất cứ lúc nào, thế nên họ đã tự tìm cho mình những giải pháp để cứu thoát bản thân từ việc liều lĩnh bỏ trốn, hay đến cả việc dây vào người những căn bệnh nặng nhất như đau mắt toét mủ bằng cách tự xát vào mắt những chất độc hại như vôi sống hay mủ bệnh lậu. Than ôi! Người ta đã buộc phải tìm đường sống bằng cách tự làm thương tổn chính bản thân mình như thế ấy, thử hỏi có nơi nào mà "lính tình nguyện" lại bị bắt ép đến cùng cực như thế, có nơi nào mà những "chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do" phải cố tạo cho mình những căn bệnh quái ác để cốt không bị chết trên chiến trường không.

Rồi cuối cùng số phận của những con người "tình nguyện" lên chiến trường và may mắn sống sót sẽ đi về đâu. Câu trả lời là họ lập tức bị những kẻ cầm quyền đá về vị trí của những kẻ An Nam, da đen bẩn thỉu, tiếp tục kéo xe và chịu đòn roi như những nô lệ, còn những lời hứa hẹn hoa mỹ gì đó lại dường như biến mất tựa một "phép lạ". Những người lính chiến thắng trở về đã được hưởng một chế độ đãi ngộ đặc biệt khi bị lột hết của cải, quần áo, bị đối xử như giống heo bò, và bị đánh đập như những loài súc vật. Và cuối cùng khi đã may mắn được nhìn thấy Tổ quốc, họ lại nhanh chóng thoát khỏi cái mác "chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do" trở lại thành những kẻ vô tích sự, bẩn thỉu chỉ xứng đáng ăn roi từ các "ông lớn" , bị trả về đúng với vị trí ban đầu khi chiến tranh chưa xảy ra trong khi vẫn chưa biết được mùi của "công lý và tự do" mà họ đã dành cả xương máu để đánh đổi.

Như vậy thông qua văn bản Thuế máu ta không chỉ thấy được số phận thảm thương của người bản xứ khi phải trở thành những vật hy sinh, những tấm chắn bằng thịt cho bọn đế quốc tàn ác trong cuộc chiến tranh giành thuộc địa. Mà còn thấy được bộ mặt giả nhân giả nghĩa, bịp bợm, chuyên tạo ra những lời phát ngôn hoa mỹ đáng ghê tởm cốt để lừa bịp dư luận thế giới và người dân bản xứ, thế nhưng bản chất thực sự của chúng lại là sự bỉ ổi, thâm độc khi liên tục dùng mạng người dân thuộc địa làm nấc thang tiến đến những tham vọng bành trướng ghê gớm.

Bài mẫu 2: Số phận của người dân thuộc địa qua bài Thuế máu

Số phận của người dân thuộc địa qua bài Thuế máu

Dàn ý

1. Mở bài: Văn bản “Thuế máu” của Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ thái độ đê mạt của đám quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa ở hai thời điểm trước chiến tranh và khi chiến tranh xảy ra đồng thời đồng cảm sâu sắc với số phận bi thảm của những người dân thuộc địa t

2. Thân bài:

  • Trước chiến tranh, bị các đấng cai trị xem là “những tên da đen bẩn thỉu... giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta”, coi các dân tộc thuộc địa là chưa được "khai hoá văn minh", là "dã man", "mọi rợ",...
  • Khi chiến tranh bùng nổ, lập tức họ được các quan cai trị tâng bốc lên, khoác cho những danh hiệu cao quý: những người bạn, những nhà ái quốc,... và rồi đẩy họ đi khắp các chiến trường.

=> chấp nhận đột ngột xa gia đình, quê hương vì những mục đích vô nghĩa, vì những vinh dự hão huyền mà các đấng "khai hoá" khoác lên mình họ.

=> biến thành những vật hi sinh cho lợi ích của bọn cầm quyền: phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu, bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng, trở thành mồi cho cá mập, vùi xác dưới những đáy biển lạnh lẻo,....

    • Con số chứng minh: Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa.

Đánh giá : Đến đây ngòi bút của Bác càng trở nên sắc sảo hơn, sau khi đã nêu lên số phận thảm thương của người dân bản xứ. Bác đã dùng những lời lẽ vừa đanh thép, vừa mỉa mai châm biếm để vạch trần bộ mặt gian xảo của chính quyền thực dân:

3. Kết bài:  

  • Đằng sau đó ta còn thấy được máu và nước mắt của người dân thấm đẫm trên từng trang sách.
  • Tác phẩm là lời tố cáo thống thiết và đanh thép chính quyền thực dân tàn bạo chà đạp lên quyền sống, quyền tự do của con người.

Bài viết

Văn bản “Thuế máu” của Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ thái độ đê mạt của đám quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa ở hai thời điểm trước chiến tranh và khi chiến tranh xảy ra đồng thời đồng cảm sâu sắc với số phận bi thảm của những người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa của thực dân.

Trước chiến tranh, các đấng cai trị xem những người dân thuộc địa là “những tên da đen bẩn thỉu... giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta”. Chúng coi các dân tộc thuộc địa là chưa được "khai hoá văn minh", là "dã man", "mọi rợ",... Nhưng khi chiến tranh bùng nổ, lập tức họ được các quan cai trị tâng bốc lên, khoác cho những danh hiệu cao quý: những người bạn, những nhà ái quốc,... và rồi đẩy họ đi khắp các chiến trường.

Cách đối xử của bọn thực dân lộ rõ bản chất bỉ ổi và thủ đoạn lừa bịp của chúng. Những người An Nam nói riêng và người dân các nước thuộc địa nói chung, vô hình chung đã trở thành vật hi sinh, trở thành những tấm lá chắn cho Pháp trên khắp các chiến trường.

Và họ phải nhận lấy một số phận bi thảm, trở thành vật tế trong những cuộc chiến tranh phi nghĩa. Họ đành chấp nhận đột ngột xa gia đình, quê hương vì những mục đích vô nghĩa, vì những vinh dự hão huyền mà các đấng "khai hoá" khoác lên mình họ. Họ bị biến thành những vật hi sinh cho lợi ích của bọn cầm quyền: phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu, bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng, trở thành mồi cho cá mập, vùi xác dưới những đáy biển lạnh lẻo,.... Những người không trực tiếp ra trận thì cũng bị vắt kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm hoặc bị nhiễm bệnh bởi muôn vàn các chất độc hại khác mà chết. Những thống kê số liệu về sự hi sinh của những người dân đen tội nghiệp ấy càng khắc sâu thêm tình cảnh bi thảm của họ: Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa.

Chiến tranh tuy đã kết thúc, nhưng thực dân Pháp vẫn tìm mọi cách để đầu độc nòi giống. Chúng sử dụng những chiêu bài hết sức thâm hiểm như cấp môn bài bán lẻ thuốc biện cho các thương binh Pháp và vợ con sĩ tử Pháp. Thủ đoạn thâm độc ấy đã đầu độc cả một dân tộc.

Đến đây ngòi bút của Bác càng trở nên sắc sảo hơn, sau khi đã nêu lên số phận thảm thương của người dân bản xứ. Bác đã dùng những lời lẽ vừa đanh thép, vừa mỉa mai châm biếm để vạch trần bộ mặt gian xảo của chính quyền thực dân: “Để ghi nhớ công lao của người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột hết của cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra mua, đến các vật kỉ niệm đủ thứ … trước khi họ đến Mác-xây xuống tàu về nước đó sao?”….

Bản án chế độ thực dân Pháp nói chung và Thuế máu nói riêng là áng văn chính luận xuất sắc, với ngôn từ, giọng điệu châm biếm bậc thầy, nghệ thuật lập luận sắc sảo. Đằng sau đó ta còn thấy được máu và nước mắt của người dân thấm đẫm trên từng trang sách. Tác phẩm là lời tố cáo thống thiết và đanh thép chính quyền thực dân tàn bạo chà đạp lên quyền sống, quyền tự do của con người.

Bài mẫu 3: Số phận của người dân thuộc địa qua bài Thuế máu

Số phận của người dân thuộc địa qua bài Thuế máu

Dàn ý

1. Mở bài: Bản án chế độ thực dân Pháp của lãnh tụ cách mạng Nguyễn Ái Quốc được viết bằng tiếng Pháp, xuất bản tại Pa-ri năm 1925 và xuất bản lần đầu tiên ở Việt Nam năm 1946. Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục có tựa đề Gửi thanh niên Việt Nam, nội dung tố cáo và kết án tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân Pháp trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… đồng thời phản ánh tình cảnh tủi nhục khốn cùng của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa trên thế giới. 

2. Thân bài:

Luận điểm 1: Chiến tranh và người bản xứ

  • Trước chiến tranh thế giới lần 1, chúng cay nghiệt, khinh thường người dân thuộc địa bằng những cái tên “bọn da đen bẩn thỉu”, hay bọn “An-nam-mít”, bọn chỉ biết “kéo xe tay và ăn đòn”.
  • Sau khi chiến tranh xảy ra, bọn thực dân bất ngờ thay đổi chóng mặt, chúng gọi người dân thuộc địa là “con yêu”, là “bạn hiền”, ngợi ca và phong cho họ là những “chiến sĩ tự do bảo vệ công lí”.
  • Tại sao có sự thay đổi như vậy? Vì sau khi chiến tranh xảy ra, bọn thực dân muốn dùng dân thuộc địa để giúp chúng bành trướng và chết thay cho chúng

* Số phận của người dân thuộc địa

  • Trên chiến trường tàn khốc: họ buộc phải xa gia đình, xa quê hương, người phơi thây ngoài chiến trường, kẻ chết khi vượt biển, bỏ xác tại nơi hoang vu, bị tàn sát không thương tiếc…
  • Ở hậu phương, họ bị bọn thực dân bóc lột, vắt kiệt sức trong các xưởng thuốc súng, bị nhiễm khí độc đến nỗi “khạc ra từng miếng phổi”.

⇒ Số phận thảm thương, bế tắc của những người dân thuộc địa.

Luận điểm 2: Chế độ lính tình nguyện

* Các thủ đoạn, mánh khóe của bọn thực dân

  • Các thủ đoạn vũ lực, mánh khóe vô lí để bắt ép người dân Đông Dương đi lính và vơ vét của cải của họ:
    • Chúng mở cuộc lùng ráp, vây bắt và cưỡng chế bằng vũ lực để ép người dân đi lính
    • Chúng dùng mánh khóe trấn lột của cải của người dân bằng luận điệu: muốn không đi lính thì xì tiền ra.
    • Khi bị bắt, chúng trói, xích, đánh đập như súc vật, sẵn sàng đàn áp dã man nếu họ chống đối.

⇒ Vô nhân đạo, không từ một thủ đoạn tàn ác, coi mạng người như cỏ rác.

    • Giọng điệu xảo trá, đáng khinh khi chúng nói “các bạn đã tấp nập đầu quân…; không ngần ngại rời bỏ quê hương…”.

* Phản ứng của người dân

  • Tìm mọi cách để trốn thoát khỏi vòng vây của bọn thực dân
  • Sẵn sàng làm cho mình nhiễm những căn bệnh nặng nhất để không phải đi nhưng cuối cùng vẫn bị chúng bóc lột, vơ vét không từ thủ đoạn.

⇒ Họ không hề tình nguyện như lời phủ toàn quyền Đông Dương đã công bố trước toàn thế giới.

Luận điểm 3: Kết quả của sự hi sinh

  • Một loạt các câu nghi vấn nhưng không hề có mục đích hỏi mà tác giả đang muốn khẳng định, vạch trần bộ mặt tráo trở, tàn nhẫn, xảo trá, vô nhân đạo, bỉ ổi của bọn thực dân Pháp đối với những người dân Việt Nam
  • Chúng thẳng thường tuyên bố: “Các anh đã bảo về Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ chúng tôi không cần các anh nữa, cút đi.”
  • Chúng thậm chí còn ra sức vơ vét , gieo rắc vào đất nước ta những tệ nạn chết người.

⇒ Lời tố cáo thẳng thắn, quyết liệt của tác giả trước những tội ác của bọn thực dân, thái độ mỉa mai, châm biếm đến cực độ trước sựu gian xảo, bỉ ổi của chúng.

3. Kết bài: Với cách sắp xếp này, bộ mặt giả nhân giả nghĩa và bản chất độc ác của chính quyền thực dân Pháp xung quanh việc bóc lột xương máu được phơi bày toàn diện, triệt để. Mặt khác, thân phận thảm thương của người dân nô lệ các xứ thuộc địa cũng được phản ánh một cách chân thực và sinh động.

Bài viết

Bản án chế độ thực dân Pháp của lãnh tụ cách mạng Nguyễn Ái Quốc được viết bằng tiếng Pháp, xuất bản tại Pa-ri năm 1925 và xuất bản lần đầu tiên ở Việt Nam năm 1946. Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục có tựa đề Gửi thanh niên Việt Nam, nội dung tố cáo và kết án tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân Pháp trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… đồng thời phản ánh tình cảnh tủi nhục khốn cùng của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa trên thế giới. Từ đó, bước đầu tác giả vạch ra đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn để các dân tộc tự giải phóng, giành quyền độc lập.

Sự ra đời của Bản án chế độ thực dân Pháp đã giáng một đòn tiến công quyết liệt vào chủ nghĩa thực dân ngay tại sào huyệt của chúng và chỉ ra con đường cách mạng cùng tương lai tươi sáng cho các dân tộc bị áp bức.

Đầu thế kỉ XX, một số nước lớn ở châu u thi nhau xâm chiếm thuộc địa ở nhiều nơi trên thế giới để vơ vét của cải và nhân lực. Chính sách cai trị của chế độ thực dân rất hà khắc, dã man nên cuộc sống nhân dân thuộc địa vô cùng cực khổ. Làn sóng cách mạng giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi dâng lên ngày càng mạnh mẽ. Đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918) mà Nguyễn Ái Quốc mỉa mai gọi là cuộc chiến tranh vui tươi thực chất là cuộc xung đột ác liệt giữa các đế quốc để tranh giành ảnh hưởng và quyền lợi. Nó đẩy nhân dân lao động ở các nước tư bản và dân chúng nghèo khổ ở thuộc địa vào lò lửa chiến tranh thảm khốc.

Bản án chế độ thực dân Pháp là tác phẩm được Nguyễn Ái Quốc dành nhiều thời gian và công sức để hoàn thành. Mỗi chương của tác phẩm viết về một chủ đề và tất cả hợp thành bản cáo trạng phong phú, đanh thép về tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân, về cuộc sống khốn cùng của người dân các xứ thuộc địa. Với thiên phóng sự điều tra này, lần đầu tiên trên thế giới, chế độ thực dân bị lên án một cách toàn diện, cụ thể, chính xác và có hệ thống.

Bản án chế độ thực dân Pháp thể hiện lòng căm thù mãnh liệt những thế lực thống trị tàn bạo, đồng thời bày tỏ tình yêu thương thắm thiết những kiếp người nô lệ nghèo khổ, phản ánh ý chí chiến đấu giành độc lập, tự do cho các dân tộc thuộc địa của Nguyễn Ái Quốc. Đồng thời tác phẩm cũng thể hiện tài năng văn chương của tác giả qua nghệ thuật trào phúng, đả kích sắc sảo.

Thuế máu là chương đầu tiên của Bản án chế độ thực dân Pháp, ở chương này, tác giả tập trung vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa và các thủ đoạn tàn bạo của thực dân Pháp trong việc dùng người dân thuộc địa làm vật hi sinh trong các cuộc chiến tranh thảm khốc để mang lại quyền lợi cho nước Pháp. Lợi dụng xương máu của những con người nghèo khổ để làm giàu, đó là một trong những tội ác ghê tởm nhất của chủ nghĩa thực dân.

Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bản chất xấu xa ấy bằng những lập luận chặt chẽ và tư liệu phong phú, xác thực, nhiều hình ảnh giàu giá trị biểu cảm. Giọng điệu chung của bài văn là vừa kết án đanh thép vừa mỉa mai chua chát, vừa thông cảm, xót thương.

Cái tên Thuế máu bao hàm nhiều ý nghĩa. Nó gợi lên số phận bi thảm của người dân thuộc địa, đồng thời biểu lộ thái độ căm phẫn trước tội ác ghê tởm của chính quyền thực dân. Người dân thuộc địa phải gánh chịu nhiều thứ thuế bất công, vô lí, song có lẽ một trong những thứ thuế tàn ác, dã man nhất là thứ thuế thu bằng xương máu và tính mạng của họ.

Trình tự và cách đặt tên các phần trong chương Thuế máu cũng hàm ý bóc trần các chính sách lừa bịp để bóc lột người dân thuộc địa đến tận xương tủy của chính quyền thực dân cai trị. Từ Chiến tranh và người bản xứ đến Chế độ lính tình nguyện rồi Kết quả của sự hi sinh, qua các phần tiếp nối nhau như thế, Nguyễn Ái Quốc đã từng bước phơi bày bản chất “ăn thịt người” của bè lũ thực dân.

Ở phần chiến tranh và người bản xứ., tác giả nêu bật sự đối lập trong thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa ở hai thời điểm: trước khi xảy ra chiến tranh và khi chiến tranh vừa bùng nổ.

Trước chiến tranh, người dân thuộc địa bị bọn thực dân cai trị coi là giống người hạ đẳng, ngang hàng với súc vật: … họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên “An-nam-mít" bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta. Ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi vừa bùng nổ, bọn thực dân cần lính, cần người tham gia chiến tranh thì lập tức họ biến thành những đứa “con yêu”, những người “bạn hiền" của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa. Đùng một cái, họ (những người bản xứ) được phong cho cái danh hiệu tối cao là “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”.

Tác giả đưa ra hai thái độ trái ngược hoàn toàn ấy nhằm tố cáo thủ đoạn lừa bịp bỉ ổi của chính quyền thực dân trong việc biến dân thuộc địa thành vật hi sinh. Luận điệu bịp bợm trơ trẽn của chúng được Nguyễn Ái Quốc nhắc lại với dụng ý châm biếm và đả kích sâu cay.

Số phận bi thảm của người dân thuộc địa trong cuộc chiến tranh phi nghĩa được tác giả miêu tả rất cụ thể: … họ phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ, để vượt đại dương, đi phơi thây trên các bãi chiến trường châu u.

Tác giả đã kể ra bao cái chết thảm thương của người lính thuộc địa trên khắp các chiến trường miền Nam nước Pháp bằng giọng văn trào lộng nhưng chất chứa cảm xúc xót xa, ngậm ngùi:

Trong lúc vượt biển, nhiều người bản xứ, sau khi được mời chứng kiến cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi, đã được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thủy quái. Một số khác đã bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng vùng Ban-căng… Một số khác nữa thì anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát trên bờ sông Mác-nơ, hoặc trong bãi lầy miền Săm-pa-nhơ…

Nhiều người dân thuộc địa tuy không phải ra trận nhưng ở hậu phương, họ bị bắt buộc làm công việc rất nguy hiểm là chế tạo vũ khí phục vụ chiến tranh: Làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm, tuy không phải hít hơi ngạt của bọn “bô-sơ”, nhưng lại nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối của người Pháp; Họ cũng hứng chịu bệnh tật và những cái chết đau đớn, vì những kẻ khốn khổ ấy cũng đã khạc ra từng miếng phổi, chẳng khác gì hít phải hơi ngạt vậy.

Tác giả đã nêu ra một con số khủng khiếp về số người bản xứ đã bỏ mình trên đất Pháp trong mấy năm chiến tranh thế giới thứ nhất: Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa.

Tiếp đến phần chế độ lính tình nguyện, tác giả vạch trần các mánh khóe và thủ đoạn bắt lính của bọn thực dân. Có thật là người dân thuộc địa tình nguyện hiến dâng xương máu cho “nước mẹ Đại Pháp” như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền hay không? Tác giả kể rằng: Một bạn đồng nghiệp nói với chúng tôi: Dân lao khổ bản xứ ở Đông Dương từ bao đời nay bị bóp nặn bằng đủ mọi thứ thuế khóa, sưu sai, tạp dịch, bằng cưỡng bức phải mua rượu và thuốc phiện theo lệnh quan trên, từ 1915 – 1916 tới nay, lại còn phải chịu thêm cái vạ mộ lính nữa.

Những biến cố trong mấy năm gần đây là cái cớ để kẻ thù tiến hành những cuộc lùng ráp lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương. Những người bị bắt đều bị nhốt vào trại lính với đủ thứ tên: lính khố đỏ, lính thợ chuyên nghiệp, lính thợ không chuyên nghiệp,… Bọn thực dân coi lính thuộc địa không phải là người mà chỉ là thứ vật liệu biết nói. Cách gọi đó tự nó đã có tác dụng tố cáo mạnh mẽ bản chất dối trá, lừa bịp và dã man của chính quyền thực dân. Những viên công sứ Pháp (đứng đầu một tỉnh) cùng bọn quan lại dưới quyền tiến hành vây bắt và cưỡng bức người dân phải đi lính, lợi dụng chuyện bắt lính để dọa nạt, xoay xở kiếm tiền đối với những nhà giàu:

Thoạt tiên, chúng tóm những người khỏe mạnh, nghèo khổ những người này chỉ chịu chết thôi không còn kêu cứu vào đâu được. Sau đó, chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: “đi lính tình nguyện, hoặc xì tiền ra”.

Chúng sẵn sàng trói, xích, nhốt người ta như nhốt súc vật và đàn áp dã man nếu như dám chống đối. Tác giả đã kể ra sự thực phũ phàng là người dân thuộc địa chỉ có hai con đường: hoặc trốn tránh hoặc phải xì tiền ra. Thậm chí họ còn tìm cách tự làm cho mình nhiễm phải những căn bệnh nặng nhất để khỏi phải đi lính.

Trong khi làm những điều độc ác như đã kể trên, chính quyền thực dân vẫn không ngừng rêu rao về tinh thần tình nguyện đầu quân của người dân thuộc địa. Lời tuyên bố trịnh trọng của phủ toàn quyền Đông Dương chỉ làm bộc lộ rõ thêm thủ đoạn lừa bịp trơ trẽn ấy:

Ấy thế mà trong một bản bố cáo với những người bị bắt lính, phủ toàn quyền Đông Dương, sau khi hứa hẹn ban phẩm hàm cho những lính sẽ còn sống sót và truy tặng những người sẽ hi sinh “cho tổ quốc”, đã trịnh trọng tuyên bố rằng: “Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ”.

Tác giả mỉa mai chua chát luận điệu dối trá ấy bằng những câu hỏi tu từ:" Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính đến thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn? Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hòa và nhiều nơi khác nữa, phải chăng là những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân “tấp nập" và “không ngần ngại”? Trong phần Chế độ lính tình nguyện, tác giả đã đưa ra hàng loạt dẫn chứng thực tố đối lập hoàn toàn với luận điệu bịp bợm của bọn thực dân cầm quyền để lột trần bản chất tham lam và tàn bạo của chúng trong chính sách cai trị đối với người dân thuộc địa.

Kết quả sự hi sinh của người lính thuộc địa trong các cuộc chiến tranh và cách đối xử của chính quyền thực dân sau khi đã bóc lột xương máu họ đã được tác giả miêu tả bằng những hình ảnh, chỉ tiết tiêu biểu có sức tố cáo rất lớn. Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyển nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người Nê-gơ-rô" lẫn người “An nam-mít” mặc nhiên trở lại “giống người bẩn thỉu”.

Để ghi nhớ công lao người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột hết tất cả của cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra mua, đến các vật kỉ niệm đủ thứ,… trước khi đưa họ đến Mác-xây xuống tàu về nước đó sao ? Chẳng phải người ta đã giao họ cho bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập họ vô cớ đó sao ? Chẳng phải người ta đã cho họ ăn như cho lợn ăn và xếp họ như xếp lợn dưới hầm tàu ẩm ướt, không giường nằm, không ánh sáng, thiếu không khí đó sao ? về đến xứ sở, chẳng phải họ đã được một quan cai trị biết ơn đón chào nồng nhiệt bằng một bài diễn văn yêu nước: “Các anh đã bảo vệ Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ, chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi!”đó sao?

Mỉa mai thay, khi chiến tranh vừa chấm dứt thì các lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyền cũng tự dưng im bặt (!) Những người lính từng được tâng bốc bằng bao lời lẽ hoa mĩ thì bây giờ mặc nhiên trở lại “giống người bẩn thỉu" như trước đây.

Đối với người dân thuộc địa, sự hi sinh cho chính nghĩa và công lí như lời rêu rao dối trá của lũ thực dân chẳng hề mang lại lợi ích gì cho họ bởi chế độ bản xứ là chế độ không hề biết đến chính nghĩa và công lí. Bộ mặt tráo trở của chính quyền thực dân bộc lộ trắng trợn qua những hành động vô nhân đạo: tước đoạt hết của cải mà người lính thuộc địa mua sắm được, đánh đập họ vô cớ, đối xử với họ thô bỉ như đối với súc vật. Sau chiến tranh, người dân thuộc địa trở về vị trí hèn hạ ban đầu: Thế là những “cựu binh" – đúng hơn là cái xác còn lại – sau khi đã dũng cảm bảo vệ chính nghĩa và công lí nay tay không trở về với chế độ bản xứ của họ, một,chế độ không biết gì đến chính nghĩa và công lí cả.

Ba phần của chương Thuế máu được sắp xếp theo trình tự thời gian trước, trong và sau khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất 1914 – 1918. Với cách sắp xếp này, bộ mặt giả nhân giả nghĩa và bản chất độc ác của chính quyền thực dân Pháp xung quanh việc bóc lột xương máu được phơi bày toàn diện, triệt để. Mặt khác, thân phận thảm thương của người dân nô lệ các xứ thuộc địa cũng được phản ánh một cách chân thực và sinh động.

Tác giả sử dụng rất thành công nghệ thuật gậy ông đập lưng ông bằng cách nhắc lại những mĩ từ, danh hiệu hào nhoáng mà chính quyền thực dân khoác cho người lính thuộc địa để bóc trần bản chất lừa bịp vô liêm sỉ của chúng. Tác giả dùng liên tiếp các câu hỏi tu từ để phơi bày sự thật trái ngược với lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền. Các câu chuyện, các sự kiện, con số được nêu ra đều lấy từ thực tế nên không thể chối cãi. Để tăng tính thuyết phục của lí lẽ, khi cần, tác giả còn dẫn ra ý kiến của người khác hay của chính đối tượng bị đả kích. Từ hệ thống hình ảnh và giọng điệu chung của tác phẩm, người đọc nhận ra thái độ yêu ghét rõ ràng của tác giả: căm phẫn chính quyền thực dân tàn ác và xót xa thương cảm cho thân phận người dân nô lệ của các nước thuộc địa bị bóc lột đến cả xương máu, tính mạng.

Đoạn trích Thuế máu của tác giả Nguyễn Ái Quốc đã giúp người đọc hiểu được bản chất độc ác, dã man và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của chính quyền thực dân Pháp qua việc dùng người dân các xứ thuộc địa làm vật hi sinh để bảo vệ quyền lợi của chúng trong các cuộc chiến tranh tàn khốc. Tác phẩm cũng chứng minh Nguyễn Ái Quốc là một cây bút chính luận xuất sắc trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX.

 

Số phận của người dân thuộc địa qua bài Thuế máu
Phần trên, hocthoi.net đã soạn đầy đủ lý thuyết và bài tập của bài học: Văn mẫu lớp 8: Số phận của người dân thuộc địa qua bài Thuế máu . Bài học nằm trong chuyên mục: Văn mẫu lớp 8. Phần trình bày do hanoi tổng hợp và thực hiện giải bài. Nếu có chỗ nào chưa rõ, có phần nào muốn hiểu rộng thêm, bạn đọc vui lòng comment bên dưới. Ban biên tập sẽ giải đáp giúp các bạn trong thời gian sớm nhất.

Bài soạn các môn khác

Bình luận