Danh mục bài soạn

Văn mẫu lớp 8: Phân tích bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn

Chuyên mục: Văn mẫu lớp 8

Đề bài: Phân tích bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn. Theo đó, hocthoi gửi đến các bạn 3 dàn ý + bài văn mẫu để các bạn có thể tham khảo. Từ đó, giúp các bạn có những bài văn hay nhất cho riêng mình

[toc:ul]

Bài mẫu 1: Phân tích bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn

Phân tịch bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn

Dàn ý

A. Mở bài:  “Chiếu dời đô” không chỉ là một văn bản chính trị quan trọng của dân tộc mà còn là áng văn chính luận đặc sắc của Lý Thái Tổ - vị vua khai sinh ra vương triều nhà Lý.

B. Thân bài:

Luận điểm 1: Những tiền đề, cơ sở để dời đô (Lí do phải dời đô)

Nhắc lại lịch sử dời đô của các triều đại hưng thịnh ở Trung Quốc:

  • Nhà Thương: 5 lần dời đô ; nhà Chu: 3 lần dời đô
  • Lí do dời đô của 2 nhà Thương, Chu: đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời, …hễ thấy thuận tiện thì đổi.
  • Kết quả của việc dời đô: vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh

⇒ Những tấm gương sáng chứng minh dời đô là việc “thường niên” của các triều đại lịch sử.

Phê phán hai nhà Đinh, Lê:

  • Khinh thường mệnh trời
  • Không biết noi theo các tấm gương sáng của 2 nhà Thương, Chu
  • Hậu quả: triều đại ngắn ngủi, nhân dân không thể phát triển được.

⇒ Những cơ sở thuyết phục để khẳng định dời đô là điều nên làm của các triều đại hưng thịnh, đặc biệt là trong hoàn cảnh nhà Lý lúc bấy giờ đang rất cần một nơi hội tụ đầy đủ linh khí, sức mạnh đất trời để phát triển.

Luận điểm 2: Những lợi thế bậc nhất của thành Đại La

Thành Đại La có những lợi thế tuyệt vời mà khó nơi nào có được

  • Vị trí địa lý: ở vào nơi trung tâm trời đất, hợp cả 4 hướng nam, bắc, đông, tây, phía trước là sông phía sau được bao bọc bởi núi.
  • Thế đất: “rồng cuộn hổ ngồi”, được coi là thế đất đẹp, có tương lai phát triển thịnh vượng
  • Địa thế: rộng rãi, bằng phẳng, đất cao, thoáng
  • Dân cư: không bị ảnh hưởng cảu thiên tai ngập lụt
  • Phong cảnh: tốt tươi, tràn đầy sức sống

⇒ Thành Đại La xứng đáng là thánh địa của trời đất, là nơi thích hợp nhất để đóng đô muôn đời. Qua đó, thể hiện khát vọng của nhà vua về một đất nước thái bình, thịnh trị và ý thức dân tộc, tự chủ, tự lập, tự cường của một quốc gia phong kiến.

Luận điểm 3: Lời tuyên bố của vua

  • Chiếu là một thể văn chính luận được dùng để nhà vua ban bố mệnh lệnh đến quần thân, thiên hạ, vì vậy, lời văn trong chiếu thương trang trọng, cứng nhắc và mang sắc thái bắt buộc.
  • Lời tuyên bố của vua Lý Thái Tổ lại khác: đầu tiên vua đưa ra mong muốn dời đô của bản thân, sau đó lại hỏi ý kiến quần thần ⇒ thể hiện sự gần gũi, mang tính dân chủ, không ép buộc, gò bó, xa cách. Đó chính là sự khác biệt của vua Lý Thái Tổ - một vị vua yêu nước, thương dân, hết lòng muốn cống hiến cho đất nước, cho nhân dân.

Luận điểm 4: Nghệ thuật

  • Lập luận chặt chẽ, logic, chứng cứ xác thực tạo ra sức thuyết phục mạnh mẽ
  • Câu văn biền ngẫu tạo nhịp điệu
  • Sự kết hợp hài hòa giữa lí và tình

C. Kết bài:

  • Khẳng định lại giá trị tác phẩm: “Chiếu dời đô” xứng đáng là áng văn chính luận mẫu mực.
  • Liên hệ và đánh giá tác phẩm: Qua đó, ta thấy được tài năng lãnh đạo, tầm nhìn xa trông rộng và tấm lòng của vua Lý Thái Tổ đối với đất nước, nhân dân.

Bài viết

Năm 1010, vua Lí Thái Tổ đã rời từ kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La (Thăng Long – Hà Nội ngày nay). Đây là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu thời kì phát triển mạnh mẽ của triều đại phong kiến Việt Nam thời đó. Và nhà vua đã viết lên "Chiếu dời đô" để thông báo cho quân chúng được biết về sự việc dời đô đó. Bản chiếu vượt ra khỏi chức năng hành chính nhà nước thông thường, trở thành một tác phẩm vừa có giá trị lịch sử lại vừa có giá trị văn học độc đáo.

Tác phẩm được viết theo thể "Chiếu", một thể văn do vua dùng để ban bố mệnh lệnh, được viết bằng văn vần, văn biền ngẫu hoặc văn xuối; thể hiện những tư tưởng lớn lao, có ảnh hưởng lớn đến vận mệnh, triều đại, đất nước. "Chiếu dời đô" phản ánh khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh.

Trước hết, đoạn văn đầu nêu lên tiền đề, cơ sở lịch sử và thực tiễn của việc dời đô. Nhà vua không trực tiếp "áp đặt" mệnh lệnh của mình xuống quần thần mà ngược lại đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng rất tiêu biểu về các triều đại cũ trong lịch sử trước đó của cả Trung Quốc và Đại Cồ Việt. Nhà Thương năm lần dời đô, nhà Chu ba lần dời đô chỉ nhằm mục đích để "vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh". Điều đó là một việc làm hợp lí "trên vâng mệnh trời, dưới theo lòng dân" và cuối cùng thì việc dời đô của hai triều đại Thương – Chu đều tốt đẹp, mang lại kết quả viên mãn. Ngược lại, hai triều Đinh – Lê ở nước ta lại cứ đóng đô tại Hoa Lư, không chịu di dời, vậy là trái ngược mênh trời, không chịu noi gương "tiền nhân" dẫn tới hậu quả: triều đại suy vong, không được cường thịnh... Cách lập luận so sánh giữa một bên những điều tốt đẹp khi dời đô với một bên là hậu quả không tốt của việc không chịu di dời, nhà vua đã khéo léo chỉ ra quan điểm ý kiến của mình: dời đô là việc nên làm và bắt buộc phải làm. Đó là việc dời đô không chỉ có ý nghĩa noi theo tấm gương của người đi trước mà còn là việc "tính kế muôn đời cho con cháu" mai sau. Như vậy, ngay ở phần đầu bài chiếu, chúng ta đã thấy hiện lên khát vọng mãnh liệt về một đất nước độc lập, thống nhất, phát triển giàu đẹp trong tương lai của nhà vua Lí Thái Tổ.

Đoạn văn tiếp theo, nhà vua đưa ra những lý do để chọn thành Đại La là kinh đô mới. Dưới con mắt của nhà vua, thành Đại La hiện lên thực sự là một vùng đất hội tụ, chung đúc khí thiêng của muôn đời. Xét về vị trí địa lí, đây là nơi trung tâm của cả nước, có thế đất đẹp (rồng cuộn hổ ngồi) nhìn ra bốn phương nam , bắc, đông, tây, có núi có sông, đất đai rộng mà bằng, cao mà thoáng, không lo lụt lội. Về chính trị, là đầu mối giao lưu của bốn phương, dân cư đông đúc, đất đai màu mỡ, muôn vật phong phú tốt tươi. Từ đó, nhà vua đi tới kết luận: khắp cả nước thì đây chính là nơi "kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời". Đến đây, chúng ta thấy, vua Lí Thái Tổ thực sự là một vị vua anh minh, có tầm nhìn xa trông rộng, biết nắm giữ vận mệnh thịnh suy của triều đại mình và biết chủ động đáp ứng một nhu cầu cấp thiết của lịch sử, xã hội. Bởi dời đô từ nơi có núi non hiểm trở (thích hợp cho việc phòng thủ và chiến đấu) xuống vùng đồng bằng rộng lớn (khả năng phòng thủ thấp) chứng tỏ dân tộc đã có nội lực phát triển vững vàng, triều đại mạnh mẽ. Cho nên đây là biểu hiện của một khát vọng tự lực, tự cường, quyết tâm dựng nước đi liền với việc giữ nước hết sức cháy bỏng, mãnh liệt của dân tộc Đại Việt.

"Chiếu dời đô" của Lí Thái Tổ được viết cách đây hơn một nghìn năm nhưng cách lập luận vẫn có sức thuyết phục mạnh mẽ nhờ sự kết hợp hài hòa giữa lí lẽ và tình cảm. Sau những cơ sở và lí lẽ ở hai phần trước đó, nhà vua đã kết thúc bài chiếu với câu hỏi: "Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?" vừa có tính chất ban bố, lại vừa có tính chất đối thoại, thăm dò ý kiến của quần thần. Chính câu hỏi đó đã xóa nhòa đi khoảng cách giữa bậc quân vương với bách gia trăm họ, dễ tạo nên sự đồng cảm giữa nhà vua với thần dân. Từ đó mà vua – tôi dễ đồng lòng quyết tâm xây dựng đất nước cường thịnh, vưỡng mạnh, huy hoàng.

Có một câu chuyện mà người xưa vẫn truyền tai nhau, khi dời đô về Đại La, vua Lí Thái Tổ đã nằm mộng thấy rồng vàng hiển hóa bay lên trời nên nhà vua đã đổi tên Đại La thành Thăng Long. Điều đó càng cho thấy rằng, việc dời đô của nhà vua càng trở nên đúng đắn, thuyết phục hơn. Bởi đây là một sự kiện không chỉ có sự hội tụ của địa lợi, nhân hòa mà còn có cả thiên thời. Và cho tới ngày hôm nay, chúng ta vẫn thấy Đại La – Thăng Long – Hà Nội thực sự là một mảnh đất địa linh nhân kiệt với nghìn năm văn hiến và mãi trường tồn bất diệt với thời gian năm tháng trong trái tim của mỗi người dân Việt.

Tóm lại, với nghệ thuật lập luận mạch lạc, chặt chẽ, lí lẽ sác bén, dẫn chứng thuyết phục, tình cảm chân thành, bài chiếu đã có sức lay động tới trái tim đồng cảm của hàng triệu triệu người dân thời bấy giờ. Nguyện vọng dời đô của nhà vua đã được quân thần ủng hộ, cho thấy Lí Thái Tổ là vị vua thực sự là một bậc mình vương sáng suốt. Đồng thời qua bài chiếu, chúng ta cũng thấy được khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh, phát triển, sáng tươi huy hoàng.

“Chiếu dời đô” xứng đáng là áng văn chính luận mẫu mực. Tác giả đã sử dụng một hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng điệu mạnh mẽ, khỏe khoắn để thuyết phục dân chúng tin và ủng hộ cho kế hoạch dời đô của mình. Qua đó, ta thấy được tài năng lãnh đạo, tầm nhìn xa trông rộng và tấm lòng của vua Lý Thái Tổ đối với đất nước, nhân dân.

Bài mẫu 2: Phân tích bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn

Phân tịch bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn

Dàn ý

1. Mở bài

Sơ lược tác giả, tác phẩm.

2. Thân bài

a. Khái niệm chiếu (tham khảo sách giáo khoa).

b. Cơ sở, lý lẽ của việc dời đô:

  • Nhận định rằng việc dời đô từ cổ chí kim luôn là việc cần thiết và thường xảy ra ở nhiều triều đại:
    • Nhà Thương cũng từng 5 lần dời đô.
    • Nhà Chu cũng có 3 lần dời đô.
  • Mục đích của việc dời đô là vì nhân dân, vì vận nước nên "muốn đóng đô ở trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu", và đặc biệt việc dời đô vốn dĩ phải "trên vâng mệnh trời, dưới thuận ý dân"
  • Lợi ích khi dời đô đó là "vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh".
  • Dẫn ra ví dụ về hai nhà Đinh, Lê "theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời", cứ mãi đóng đô ở một chỗ, khiến cho "triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi".

=> Việc dời đô về kinh thành Đại La trở thành một việc đúng đắn, chính nghĩa, bộc lộ tài năng, tầm nhìn xa trông rộng của nhà vua, cũng như tấm lòng thấu hiểu, lo lắng cho nhân dân. Đồng thời dời đô trong thời điểm này là một việc làm thiết yếu, hợp với thiên mệnh, thể hiện tinh thần độc lập, tự cường, sự lớn mạnh của Đại Việt.

c. Lý do dời đô về Đại La:

  • Lịch sử: Hoa Lư đã từng là nơi mà Cao Vương, tức Cao Biền, một viên quan nhà Đường từng làm Đô hộ sứ Giao Châu (nước ta xưa) lựa chọn làm kinh đô.
  • Địa lý: Hoa Lư lại là nơi "trung tâm trời đất", "địa thế rộng mà bằng", "đất đai cao và thoáng" vô cùng thuận lợi cho nhân dân an cư lạc nghiệp, cũng là nơi thích hợp phát triển cả về kinh tế, chính trị và văn hóa.
  • Phong thủy: Kinh thành Hoa Lư là nơi có "thế rồng cuộn, hổ ngồi", "đúng ngôi nam bắc đông tây", "tiện hướng nhìn sông dựa núi", => nơi có địa thế đẹp, nhận đủ mọi sự ưu ái của trời đất, là chỗ đắc địa muôn nơi mới có một, chính là lựa chọn chính xác nhất để làm kinh đô Đế vương muôn đời.
  • Lợi ích đối với nhân dân: Không phải lo cảnh ngập lụt, dẫn tới việc canh nông thuận lợi, cây cối tốt tươi, vô cùng có ích cho việc phát triển kinh tế đất nước.
  • Đối với việc giao thương, vì Hoa Lư là nơi "trung tâm trời đất", "là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước", chắc chắn giao thông thuận lợi, dời đô về đây việc quản lý đất nước và ngoại giao, buôn bán cũng trở nên thuận tiện hơn.

d. Tuyên bố dời đô:

  • "Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?", câu hỏi này vừa có ý nghĩa là một mệnh lệnh, vừa mang tính chất tâm tình.

=> Thể hiện tấm lòng đức độ, anh minh của Lý Thái Tổ, dù là bậc cửu ngũ chí tôn nhưng vẫn hết lòng trân trọng ý kiến của quần thần, cũng là của nhân dân, đặt nhân dân lên làm gốc để tiến hành các quyết định.

  • Cách đặt câu hỏi cuối bài đã làm cho bài chiếu trở nên khách quan, thấu tình đạt lý, giữ vững nguyên tắc trên vâng mệnh trời, dưới thuận ý dân, dễ dàng đi sâu vào lòng người đọc, người nghe.

3. Kết bài

  • Nêu nhận xét.

Bài viết

Lý Công Uẩn (974-1028), hay còn gọi là Lý Thái Tổ - vị vua đầu tiên của triều Lý. Quê gốc ở châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là tỉnh Bắc Ninh). Ông là người thông minh, tài năng, lại có chí lớn khi còn làm quan dưới triều Lê từng lập được nhiều chiến công, khi lên ngôi vua lại trở thành vị vua anh minh, sáng suốt, có tầm nhìn xa trông rộng. Trong suốt thời gian trị vì việc dời đô về Đại La là một trong những sự kiện tiêu biểu thể hiện tài năng và đức độ của Lý Công Uẩn. Chiếu dời đô viết năm 1010, là bài chiếu được đích thân Lý Thái Tổ viết nhằm công bố rộng rãi quyết định dời đô đến toàn thể nhân dân, với những lý lẽ và dẫn chứng thuyết phục, phản ánh khát vọng của nhân dân về một dân tộc được độc lập thống nhất và Tổ quốc đang trên đà lớn mạnh.

Chiếu là thể văn do vua dùng để ban bố mệnh lệnh, được viết bằng văn vần, văn biền ngẫu hoặc văn xuôi, được ban bố và đón nhận một cách trang trọng. Một số bài chiếu thể hiện những tư tưởng chính trị lớn lao, có ảnh hưởng đến vận mệnh của cả một triều đại, đất nước. Chiếu dời đô chính là một trong số đó

Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn là một tác phẩm được viết theo thể chiếu dưới dạng văn biền ngẫu, nhưng mang bố cục của một bài văn nghị luận mẫu mực điển hình, được xem là áng văn chính luận đặc sắc trong nền văn học trung đại Việt Nam. Trong phần đầu của tác phẩm Lý Công Uẩn tập trung đi vào phân tích những lý do, cơ sở của việc dời đô từ Hoa Lư về kinh thành Đại La với những lý lẽ vô cùng sắc bén và thuyết phục. Ông nhận định rằng việc dời đô từ cổ chí kim luôn là việc cần thiết và thường xảy ra ở nhiều triều đại, đồng thời đưa ra dẫn chứng trong lịch sử của Trung Quốc cổ đại rằng nhà Thương cũng từng 5 lần dời đô, nhà Chu cũng có 3 lần dời đô. Sau đó tác giả khéo léo chỉ ra mục đích của việc dời đô không phải là theo ý thích của bậc vua chúa, mà tất thảy cũng vì nhân dân, vì vận nước nên "muốn đóng đô ở trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu", và đặc biệt việc dời đô vốn dĩ phải "trên vâng mệnh trời, dưới thuận ý dân", chứ không phải thích là dời được. Để củng cố cho nhận định của mình về việc dời đô, Lý Công Uẩn tiếp tục đưa ra những lợi ích khi dời đô đó là "vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh". Đồng thời cũng dẫn ra ví dụ về hai nhà Đinh, Lê "theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời", cứ mãi đóng đô ở một chỗ, khiến cho "triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi". Kết quả đáng tiếc này khiến cho nhà vua trăm bề đau xót, từ đó dẫn đến quyết định dời đô vì không muốn lặp lại vết xe đổ của những triều đại đi trước. Từ đó có thể nhận định việc dời đô về kinh thành Đại La trở thành một việc đúng đắn, chính nghĩa, bộc lộ tài năng, tầm nhìn xa trông rộng của nhà vua, cũng như tấm lòng thấu hiểu, lo lắng cho nhân dân. Đồng thời dời đô trong thời điểm này là một việc làm thiết yếu, hợp với thiên mệnh, thể hiện tinh thần độc lập, tự cường, sự lớn mạnh của Đại Việt. Sự phối hợp rất nhịp nhàng, tinh tế giữa cái lý và cái tình của tác giả, làm cho bài chiếu trở nên thuyết phục và linh hoạt chứ không hề khô khan cứng nhắc.

Sau khi đưa ra cơ sở, cũng như những lý do chính đáng của việc dời đô thông qua việc soi chiếu lịch sử triều đại của cả Trung Quốc và Đại Việt. Nhà vua tiếp tục khẳng định sự đúng đắn của việc dời đô từ Hoa Lư về Đại La bằng việc chỉ ra những lợi thế của kinh thành Đại La so với Hoa Lư về các phương diện lịch sử, địa lý, phong thủy, giao thương, dân cư, thiên nhiên. Về phương diện lịch sử đi ngược về khoảng thời gian hơn 100 năm về trước Lý Công Uẩn chỉ ra Hoa Lư đã từng là nơi mà Cao Vương, tức Cao Biền, một viên quan nhà Đường từng làm Đô hộ sứ Giao Châu (nước ta xưa) lựa chọn làm kinh đô. Chứng tỏ rằng nơi đây phải có những đặc điểm nổi trội hẳn so với những nơi khác để trở thành nơi đặt cơ quan đầu não cai trị của Cao Vương. Xét về phương diện địa lý, Hoa Lư lại là nơi "trung tâm trời đất", "địa thế rộng mà bằng", "đất đai cao và thoáng" vô cùng thuận lợi cho nhân dân an cư lạc nghiệp, cũng là nơi thích hợp phát triển cả về kinh tế, chính trị và văn hóa. Xét về phương diện phong thủy kinh thành Hoa Lư là nơi có "thế rồng cuộn, hổ ngồi", "đúng ngôi nam bắc đông tây", "tiện hướng nhìn sông dựa núi", tất cả đều chỉ ra đây là một nơi có địa thế đẹp, nhận đủ mọi sự ưu ái của trời đất, là chỗ đắc địa muôn nơi mới có một, chính là lựa chọn chính xác nhất để làm kinh đô Đế vương muôn đời. Bên cạnh đó xét về lợi ích của nhân dân thì chính nhờ vào những ưu điểm địa hình thế nên nhân dân không phải lo cảnh ngập lụt, dẫn tới việc canh nông thuận lợi, cây cối tốt tươi, vô cùng có ích cho việc phát triển kinh tế đất nước. Đối với việc giao thương, vì Hoa Lư là nơi "trung tâm trời đất", "là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước", thế nên chắc chắn giao thông thuận lợi, dời đô về đây việc quản lý đất nước và ngoại giao, buôn bán cũng trở nên thuận tiện hơn rất nhiều. Một lý do nữa mà Lý Công Uẩn quyết định dời đô thì Hoa Lư về Đại La là bởi, xét tình hình hiện tại đất nước đã bước vào nền độc lập, tự chủ gần 100 năm, trước kia vì Đại Việt còn non yếu, lại luôn phải chịu sự xâm lược từ phương Bắc. Vậy nên đóng đô ở Hoa Lư, nơi có địa hình hiểm trở, núi non bao bọc, trở thành một trận tuyến vững chắc giúp ta chống lại kẻ thù bằng lối đánh du kích, lấy ít địch nhiều. Tuy nhiên đến thời Lý Thái Tổ, đất nước ngày càng phát triển, quân đội hùng mạnh việc đóng đô ở Hoa Lư không còn thích hợp nữa, dời đô về Đại La chính là sự khẳng định cho ý chí độc lập tự cường của dân tộc, quân dân Đại Việt ta ngày nay đã lớn mạnh sẵn sàng chống lại mọi sự xâm lược mà không cần phải dựa vào địa hình núi non hiểm trở như trước kia nữa.

Kết lại bài chiếu nhà vua đã viết "Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?", câu hỏi này vừa có ý nghĩa là một mệnh lệnh, bởi vốn dĩ nhà vua đang ban chiếu dời đô, nhưng đồng thời nó cũng mang tính chất tâm tình khi nhà vua có ý muốn hỏi quần thần về ý định của mình. Điều đó thể hiện tấm lòng đức độ, anh minh của Lý Thái Tổ, dù là bậc cửu ngũ chí tôn nhưng vẫn hết lòng trân trọng ý kiến của quần thần, cũng là của nhân dân, đặt nhân dân lên làm gốc để tiến hành các quyết định. Đồng thời cũng bộc lộ mong muốn của Lý Thái Tổ về một đất nước vua tôi đồng lòng, đạt được sự thống nhất, thuận tình trong nhân dân. Có thể nói rằng cách đặt câu hỏi cuối bài đã làm cho bài chiếu trở nên khách quan, thấu tình đạt lý, giữ vững nguyên tắc trên vâng mệnh trời, dưới thuận ý dân, dễ dàng đi sâu vào lòng người đọc, người nghe.

Chiếu dời đô là một áng văn chính luận đặc sắc phản ánh khát vọng của nhân dân ta về một đất nước độc lập thống nhất, nhân dân có ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết một lòng, đồng thời cũng thể hiện sự anh minh, sáng suốt, tài năng và đức độ của Lý Công Uẩn trong quá trình trị vì đất nước giai đoạn đầu nhà Lý mới được thành lập. Tác phẩm thành công không chỉ nằm ở việc chứa giá trị nội dung sâu sắc mà còn nằm ở nghệ thuật lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, dẫn chứng tiêu biểu giàu sức thuyết phục, lối viết kết hợp hài hòa giữa cái lý và tình.

Bài mẫu 3: Phân tích bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn

Phân tịch bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn

Dàn ý

1. Mở bài: Trong những áng văn nghị luận trung đại, Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn có một vị trí quan trọng. Nó là áng văn khởi đầu cho nền văn học thời Lí - Trần. 

2. Thân bài:

Hoàn cảnh ra đời:

  • Khi đất nước đã thái bình nhưng nền thái bình ấy còn mong manh, nguy cơ giặc giã thôn tính Đại Việt chưa phải là hết.
  • Đây là thời điểm dân tộc ta đã giành được chủ quyền, có núi sông riêng, chế độ riêng, nhưng các triều đại Đinh- Tiền Lê nối tiếp nhau ra đời rồi cũng nhanh chóng tiêu vong.
  • Nhà Lí thành lập.

=> Một trọng trách nặng nề đè nặng trên đôi vai vương triều họ Lí là làm thế nào để giữ yên giang sơn bờ cõi, bảo tồn được thành quả của cha ông đã giành được?

=>Niềm trăn trở ấy đã biến thành quyết định dời đô của Lí Thái Tổ(Lí Công Uẩn), và bài Chiếu đã ra đời. Hơn ai hết, Lí Công Uẩn hiểu rõ lí do phải dời đô cũng như lợi ích của việc dời đô.

Nhắc lại lịch sử dời đô của các triều đại hưng thịnh ở Trung Quốc:

  • Nhà Thương: 5 lần dời đô ; nhà Chu: 3 lần dời đô
  • Lí do dời đô của 2 nhà Thương, Chu: đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời, …hễ thấy thuận tiện thì đổi.

=> Việc dời đô là việc làm có suy tính đến sự thiệt hơn, đến sự hưng thịnh, tồn vong của giang sơn, xã tắc, đến hạnh phúc lâu dài của trăm họ, muôn dân=> cần noi theo

Những lợi thế bậc nhất của thành Đại La

  • Thứ nhất, về vị trí địa lí ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuốn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi phải chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi.
  • Thứ hai, vế chính trị, văn hóa thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương, cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.

⇒ Thành Đại La xứng đáng là thánh địa của trời đất, là nơi thích hợp nhất để đóng đô muôn đời. Qua đó, thể hiện khát vọng của nhà vua về một đất nước thái bình, thịnh trị và ý thức dân tộc, tự chủ, tự lập, tự cường của một quốc gia phong kiến.

Đánh giá:

  • Chiếu dời đô đã đánh trúng vào niềm khao khát xây dựng một đất nước độc lập, thống nhất, hùng cường của cả dân tộc nên nó được mọi người nồng nhiệt hưởng ứng. Một kinh đô mới đã ra đời và tồn tại vĩnh viễn.
  • Chiếu dời đô không chỉ thể hiện một khát vọng lớn, nó còn thể hiện được khí phách của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh.

3. Kết bài: Ngày nay, càng đọc kĩ Chiếu dời đô, càng suy ngẫm kĩ về tư tưởng bài Chiếu, ta càng thấy thấm thía sự sang suốt và quyết định đúng đắn của một bậc đế vương hào kiệt

Bài viết

Trong những áng văn nghị luận trung đại, Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn có một vị trí quan trọng. Nó là áng văn khởi đầu cho nền văn học thời Lí - Trần. Hơn nữa, nó là áng văn đầu tiên thể hiện khát vọng về một đất nước độc lập, thống nhất, hung cường và khí phách của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh.

Chiếu dời đô ra đời trong hoàn cảnh lịch sử khá đặc biệt. Tuy không phải là hoàn cảnh giặc thù đang lăm le ngoài biên ải, vận mệnh Tổ quốc lâm nguy như hoàn cảnh ra đời của Hịch tướng sĩ. Cũng không phải không khí tưng bừng rộn rã của cả dân tộc đang ca khúc khải hoàn như hoàn cảnh ra đời của Bình ngô đại cáo. Đây là hoàn cảnh đất nước đã thái bình. Nhưng nền thái bình ấy còn mong manh, nguy cơ giặc giã thôn tính Đại Việt chưa phải là hết. Đây là thời điểm dân tộc ta đã giành được chủ quyền, có núi sông riêng, chế độ riêng, nhưng các triều đại Đinh- Tiền Lê nối tiếp nhau ra đời rồi cũng nhanh chóng tiêu vong. Nhà Lí thành lập. Một trọng trách nặng nề đè nặng trên đôi vai vương triều họ Lí. Làm thế nào để giữ yên giang sơn bờ cõi, bảo tồn được thành quả của cha ông đã giành được? làm thế nào để phát triển đất nước ngày càng hùng cường? Niềm trăn trở ấy đã biến thành quyết định dời đô của Lí Thái Tổ(Lí Công Uẩn), và bài Chiếu đã ra đời. Hơn ai hết, Lí Công Uẩn hiểu rõ lí do phải dời đô cũng như lợi ích của việc dời đô.

Trong lịch sử nhân loại, đã có không ít những lần dời đô. Không xét đâu xa lạ, chỉ riêng một quốc gia cận kề với Đại Việt là Trung Hoa, chỉ ở hai triều đại thôi cũng đã có tới vài lần phải thay đổi kinh đô: Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Việc dời đô của các vị đế vương Thương, Chu ấy phải đâu là những việc làm tùy tiện, theo ý riêng của mình. Đó là những việc làm có suy tính đến sự thiệt hơn, đến sự hưng thịnh, tồn vong của giang sơn, xã tắc, đến hạnh phúc lâu dài của trăm họ, muôn dân. Thật là một việc làm trên theo mệnh trời, dưới theo ý dân, đáng là tấm gương để đời sau noi theo.

Từ bài học của các đế vương Trung Hoa, đi sâu vào thực tế của Đại Việt, Lí Thái Tổ càng thấy bức xúc, trăn trở: Kinh Đô của Đại Việt đóng ở Hoa Lư, nơi đất hẹp hè thưa, địa thế tuy có hiểm trở nhưng đâu phải là nơi thuận tiện cho việc giao lưu phát triển, làm sao vận nước có thể lâu dài, phong tục có thể phồn vinh như các triều đại Thương, Chu bên Trung Quốc? Và thực tế là số vận của hai nhà Đinh, Lê không được lâu bền, số vận ngắn ngủi và trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi há chẳng phải là điều đang diễn ra đó sao?

Không chỉ bức xúc, trăn trở, nhà vua còn cảm thấy rất đau xót về việc đó. Tình cảm chân thành của ông là khát vọng về đất nước độc lập, thống nhất, hùng cường. Khát vọng ấy biến thành ý chí hành động không thể chuyển dời.

Bắt nguồn từ một khát vọng lớn lao, cao cả, với một vị trí mẫn tiệp, với tầm nhìn xa, trông rộng của một bặc thiên tài kiệt xuất, vị đế vương nhà Lí đã tìm được cho dân tộc ta một địa danh lí tưởng để định đô lâu dài. Đó là thành Đại La.( Hà Nội ngay nay). Nhà vua chỉ rõ các bá quan văn võ, cho thần dân cả nước thấy được những lợi thế vô cùng lớn của thành Đại La mà không nơi nào trên quốc gia Đại Việt có được.

Thứ nhất, về vị trí địa lí ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuốn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi phải chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi.

Thứ hai, vế chính trị, văn hóa thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương, cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.

Đóng đô ở một nơi như thế hỏi làm sao vận nước có thể ngắn ngủi, trăm họ có thể hao tổn, muôn vật có thể không được thích nghi? Chắc chắn là vận nước sẽ được lâu dài, phong tục sẽ được phồn vinh, trăm dân muôn họ sẽ được an hưởng thái bình hạnh phúc. Hỏi có còn mong ước gì hơn? Một khát vọng thật đẹp. Khát vọng của Lí Thái Tổ cũng là khát vọng của những người dân Đại Việt lúc ấy và cả sau này.

Chiếu dời đô đã đánh trúng vào niềm khao khát xây dựng một đất nước độc lập, thống nhất, hùng cường của cả dân tộc nên nó được mọi người nồng nhiệt hưởng ứng. Một kinh đô mới đã ra đời và tồn tại vĩnh viễn. Chiếu dời đô không chỉ thể hiện một khát vọng lớn, nó còn thể hiện được khí phách của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh.

Do thế và lực còn yếu, chưa đủ sức để đối phó với nạn ngoại xâm nếu định đô ở đồng bằng, nên hai nhà Đinh, Lê phải chọn Hoa Lư làm kinh đô mong dựa vào địa thế hiểm trở để bảo tồn vương triều, giữ vững chủ quyền. Bởi chưa lớn mạnh nên số vận ngắn ngủi, trăm họk phải hao tổn là lẽ đương nhiên.

Nhưng nay, nhà Lí là sự kế tục sự nghiệp của các triều đại cha anh,có thế đã lớn mạnh hơn. Nhưng dù có lớn mạnh hơnhay chưa thực sự lớn mạnh thì quyết định dời đô của vị Thái Tổ họ Lí cũng đã khẳng định được khí phách anh hùng, dám đương đầu với mọi thử thách, vững tin vào khả năng của mình. Khí phách của vị đế vương đầu tiên của nhà Lí cũng là khí phách của cả một vương triều, của cả một dân tộc đang trên đà lớn mạnh.

Ngày nay, càng đọc kĩ Chiếu dời đô, càng suy ngẫm kĩ về tư tưởng bài Chiếu, ta càng thấy thấm thía sự sang suốt và quyết định đúng đắn của một bậc đế vương hào kiệt, càng thêm biết ơn ông đã đặt nền móng cho sự bền vững, hưng thịnh lâu dài của đất nước, càng thêm cảm phục và quý mến ông.

Phân tịch bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn
Phần trên, hocthoi.net đã soạn đầy đủ lý thuyết và bài tập của bài học: Văn mẫu lớp 8: Phân tích bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn . Bài học nằm trong chuyên mục: Văn mẫu lớp 8. Phần trình bày do hanoi tổng hợp và thực hiện giải bài. Nếu có chỗ nào chưa rõ, có phần nào muốn hiểu rộng thêm, bạn đọc vui lòng comment bên dưới. Ban biên tập sẽ giải đáp giúp các bạn trong thời gian sớm nhất.

Bài soạn các môn khác

Bình luận