Danh mục bài soạn

Văn mẫu lớp 8: Cảm nhận của em về bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Chuyên mục: Văn mẫu lớp 8

Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ. Theo đó, hocthoi gửi đến các bạn 3 dàn ý + bài văn mẫu để các bạn có thể tham khảo. Từ đó, giúp các bạn có những bài văn hay nhất cho riêng mình

[toc:ul]

Bài mẫu 1: Cảm nhận của em về bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Cảm nhận của em về bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Dàn ý

I. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả và tác phẩm cần cảm nhận
  • Thế Lữ (1907-1989)  là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới buổi đầu. Hồn thơ ông dồi dào, lãng mạn đã để lại những ấn tượng khó phai trong lòng bạn đọc trong đó có bài thơ "Nhớ rừng" đã góp phần làm nên tên tuổi của nhà thơ.

II. Thân bài

a. Câu chú thích ở đầu

  • Ở đầu tác phẩm tác giả đã chú thích "Lời con hổ ở vườn bách thú". Đây phải chăng là cách tránh gây hiểu lầm? giai đoạn đầu thế kỉ hai mươi nước ta đang là thuộc địa của thực dân Pháp. Đời sống nhân dân khổ cực, lầm than, các văn nghệ sĩ cũng không thế tránh được sự kìm kẹp của thực dân Pháp. Nền văn học bấy giờ bị chia thành hai loại là văn học hợp pháp và văn học bất hợp pháp( của những người làm cách mạng). Vì vậy tác giả đã mượn lời con hổ để nói hộ nỗi lòng mình. Đi suốt tác phẩm là những lời bộc bạch như thế.

b. Cảm nhận khổ đầu: Hoàn cảnh bị ngục tù giam hãm 

"Ngậm một nỗi căm hờn trong cũi sắt

Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua

Khinh lũ người kia, ngạo mạn, ngẩn ngơ,

Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm.

Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,

Đề làm trò lạ mắt thú đồ chơi,

Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,

Và cặp báo chuồng bên vô tư lự"

  • Hai câu thơ đầu nhà thơ đã giới thiệu hoàn cảnh của con hổ. Đó là cuộc sống đang bị giam cầm, tù túng. Nó luôn ý thức mình là một bậc đế vương ngự trị trên ngai vàng, nên lòng nào tránh khỏi niềm u uất, cả một " Khối căm hờn". Nỗi đau ấy khó diễn  tả bằng lời, nó cứ nhân lên từng chút một. Một vị chúa tể giờ đây lại phải chịu kiếp sống "nhục nhằn tù hãm", để trở thành "một trò lạ mắt thứ đồ chơi", phải chịu ngang bầy với những loại tầm thường, dở hơi, vô tư lự. Đó chính là những bi kịch được đan xen trong tình uống với những đối lập
  • Viết bằng thể thơ tám chữ, được xem như là những cách tân mới trong thơ ca. Thơ ca đương thời không gò bó, mà linh hoạt bằng trắc, lời tâm sự càng dễ thấm dễ cảm.

c. Phân tích khổ 2 và khổ 3: Thơi quá khức oanh liệt 

  • Thất vọng trước thực tại, con hổ nhỡ về thời quá khứ r đầy huy hoàng đẹp đẽ
  • Đó là thuở tung hoành với khí thế lẫy lừng
  • Thuở tự do nó sánh cùng thiên nhiên với tiếng thét của một loài chúa tể
  • Thuở tự do nó bước chân đầy dõng dạc đường hoàng. Khí thế của loài mãnh hổ đầy uy phong, muôn loài không khỏi khiếp sợ mà nể phục
  • Bằng việc sử dụng biện pháp liệt kê tác giả đã khắc họa sinh động bức chân dung  của loai chúa tể
  • Là chúa tể của muôn loài, thiên nhiên của cuộc sống tự do thật đẹp đẽ lôi cuốn
  • Đó là cảnh đêm vàng bên bờ suối, những bình minh của những cây xanh và tiếng chim và những buổi chiều " Lên láng máu sau rừng". Nhà thơ sử dụng liên tiếp các động từ tinh vi " Say mồi đứng uống" ," lặng ngắm", "Chiếm lấy". Đại từ " Ta" thế hiện một tư thế đường hoàng, oanh liêt. Nhưng hãy lặng lại xem. Ta là " Uống ánh trăng tan" , ta đợi chết " Mảnh mặt trời", những kết hợp từ đầy mới mẻ không chỉ vẽ lên thiên nhiên vơi những mảng màu lãng mạn và còn thấy tài năng của Thế Lữ trong biệt tài sử dụng tiếng việt mà nhà phê bình Hoài Thanh đã không khỏi ngạc nhiên khi đọc:" Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng mệnh lệnh không thể cưỡng được"
  • Nhưng những câu thơ lại được đặt liên tiếp những dấu hỏi. Từ " Đâu" gieo lên trong mỗi câu hỏi như thêm phần nhức nhỗi cho nỗi đau ấy. Đẹp đẽ thế nào đó cũng chỉ là một quá khứ xa xôi, trôi về cõi mơ trở về cõi thật niềm phẫn uất buộc phải cất nên lời than " Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?"

d. Hai khổ cuối

  • Quá khứ đã dần tan, còn thực tại thì ngày càng rõ nét, tình cảnh éo le buộc nó phải cất nên nỗi niềm đầy phẫn uất. Nhưng rốt cuộc sự từ túng chẳng thể giam nổi niềm thiết tha với tự do. 
  • Rõ ràng hình ảnh con hổ là sự hóa thân của thi sĩ.  Thông qua đó ta thấy được khát khao giải phóng cái tôi cá nhân, cũng là niềm tâm sự nỗi đau trước cảnh dân tộc đang bị xiềng xích. Vỉ thế đằng sau đó ta còn thấy đậm đà tình yêu nước.

e. Đánh giá

  • Mượn lời con hổ bị nhốt trong rừng bách thú, Thế Lữ muốn diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng đồng thời thể hiện niềm khát khao tự do mạnh liệt và lòng yêu nước thâm kín.
  • Hình thức thơ mới mẻ, từ ngữ hình ảnh thơ sáng tạo, vần thơ tràn đầy cảm xúc lãng mạn

III. Kết bài

Bài thơ " Nhớ rừng" của Thế Lữ là một bài thơ hay không chỉ thành công ở mặt nội dung mà còn nghệ thuật, cho thấy cái tâm và cái tài của nhà thơ. Với bài thơ, Thế Lữ xứng đáng là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới cũng như văn học nước nhà.

Bài viết

Thế Lữ là nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Bài thơ “ Nhớ rừng” là một bài thơ hay, in trong tập “ Mấy vần thơ “ của ông. Tác phẩm đã mở đường cho sự thắng lợi của phong trào thơ ấy hồi đầu thế kỉ XX. Thông qua khắc hạo nỗi chán ghét cuộc sống thực tại tầm thường, tù túng của một con hổ khi bị nhốt trong cũi sắt ở vườn bách thú, bài thwo đã thể hiện khát vọng về một cuộc sống tự do.

Tâm trạng con hổ khi bị nhốt trong cũi sắt được thể hiện qua các chí tiết: “ Gậm một khố căm hờn”, “ Làm trò lạ mắt – thứ đồ chơi”, chịu ngang hàng với lũ “ gấu dở hơi” và cặp báo chuồng bên “ vô tư lự”. Hổ vốn là chúa tể của rừng xanh, luôn được tự do tung hoành. Giờ đây, khi bị giam hãm trong cũi sắt, bị biến thành kẻ mua vui khiến nó vô cùng nhục nhã. Không những thế, việc bị đánh đồng với lũ gấu dở hơi và cặp báo vô tư lự khiến nó rất bất bình. Từ “gậm” đi kèm với “khối căm hườn” trực tiếp diễn tả cảm xúc hờn căm, kết đọng, đè nặng, nhức nhối. Không có cách nào giải thoát, nó đành nằm dài, trông ngày tháng dần qua, buông xuôi, bất lực. Nghệ thuật tương phản giữa hình dáng bên ngoài buông xuôi với nội tâm hờn căm của hổ đã thể hiện nỗi chán ghét cuộc sống thực tại tầm thường, tù túng và khao khát tự do mãnh liệt.

Cảnh sơn lâm ngày xưa hiện lên trong nỗi nhớ của hổ đó là một sơn lâm với bóng cả, cây già, gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi, thét khúc trường ca dữ dội. Điệp từ “ với” kết hợp với các động từ chỉ đặc điểm hành động đã gợi  tả sức sống mãnh liệt của núi rừng đại ngàn, cái gì cũng lớn lao, phi thường, kì vĩ,…Trên cái nền thiên nhiên đó, hình ảnh chúa tể sơn lâm hiện lên với tư thế dõng dạc, đường hoàng,.. Các từ ngữ gợi hình dáng và tính cách của hổ “ lượn”, “vờn”, “quắc” thật giàu chất gợi, diễn tả vẻ đẹp vừa uy nghi, dũng mãnh, vừa mềm mại, uyển chuyển của chúa rừng. Tâm trạng của chúa rừng lúc này là hài lòng, thỏa mãn, tự hào về vẻ oai phong của mình. Đoạn thơ là nỗi hoài niệm quá khứ trong sự xót xa, nuối tiếc đến quặn thắt của hổ. Miên man trong dòng hoài niệm, quá khứ như thước phim quay chậm lần lượt hiện lên trong nỗi nhớ của hổ. Khổ thơ với các điệp từ “ đâu”, “nào đâu” đứng ở đầu các câu thơ. Mỗi lần vang lên là một lần lòng hổ sát muối. Hổ như đang kiếm tìm quá khứ xa xôi trong thảng thốt. Những tiếng này đứng ở đầu câu còn là tiếng kêu xé lòng đầy oán thán của hổ. Bốn câu hỏi tu từ nặng trĩu nhớ thương. Bốn câu hỏi là bốn bức tranh, bốn khoảnh khắc đẹp nhất, đáng nhớ nhất trong quá khứ. Trong nỗi nhớ da diết của hổ hiện lên bốn cảnh, cảnh nào cũng hùng vĩ, dữ dội mà tráng lệ, thơ mộng. Cảnh nào hổ cũng ở vị trí trung tâm, với sự uy nghi chế ngự cả thiên nhiên.

Bốn bức tranh cũng vẽ về con hổ với bốn phong cảnh và bốn tư thế khác nhau đã khái quát trọn vẹn về một thời oanh liệt của chúa sơn lâm. Bốn bức tranh là bốn hoài niệm đầy tiếc nuối, uất hận. Bốn bức tranh là bốn câu hỏi tu từ với giọng điệu tăng tiến dần. “ Nào đâu” là tiếng than ngậm ngùi, tiếc nuối mở đầu dòng hoài niệm. Đến những câu thơ tiếp theo, các từ “ đâu” đã nhuốm đầy đau đớn Đặc biệt là câu hỏi cuối cùng trong bộ tranh tứ bình dài đến ba dòng thơ là lời chất vẫn dữ dội, tìm về một dĩ vãng huy hoàng. Nhưng dĩ vãng mãi chỉ là dĩ vãng một đi không trở lại, vì vậy mà dòng hồi tưởng đến cao trào bỗng hạ xuống bằng một lời than tiếc nuối, một tiếng thở dài ngao ngán :” Than ơi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”. Sau hồi tưởng, hổ càng ý thức thêm sự bất lực của mình. Giấc mơ huy hoàng đã khép lại, chấm dứt mọi hoài niệm: thân ở từ mà hồn ở chốn giang sơn hùng vĩ.

Cảnh vườn bách thú hiện ra trước ánh nhìn của hổ. Đó là:  hoa chăm, cỏ xen, lối phẳng, cây trồng, dải nước đen giả suối, mô gò thấp kém. Đó là những cảnh giả dối, nhàm chán, đáng khinh. Đoạn thơ với giọng giễu nhại, sử dụng một loạt các từ ngữ kiệt kê liên tiếp, ngắt nhịp ngắn dồn dập, thể hiện nỗi chán trường đến cực độ. Cảnh vườn bách thú hiện lên qua con mắt của hổ cũng là thực tại của đất nước Việt Nam với những điều lố lăng, kệch cỡm trên con đường Âu hóa, khi bị thực dân Pháp xâm lược.

Khổ thơ thứ năm là giấc mộng ngàn của hổ, là không gian oai linh, hùng vĩ. Nhưng tiếc thay, đó chỉ còn là không gian trong mộng, bởi hổ đã từng thốt lên: “ nơi ta không còn được thấy bao giờ”. Mở đầu và kết thúc đoạn thơ đều là câu cảm thán bộc lộ trực tiếp nỗi luyến tiếc cuộc sống tự do. Từ đó, có thể thấy giấc mộng ngàn của hổ thực chất là nỗi đau bi kịch. Nỗi đau bị kịch được sống trong xứ sở của mình, cũng là khát vọng tự do của con người. Điều này thể hiện rất rõ qua lời nhắn gửi của con hổ tới rừng xanh. Lời nhắn nhủ của con hổ cũng là tấm lòng gắn bó với non nước cũ, nó không bị kẻ thù hay hoàn cảnh khuất phục. Lời nhắn nhủ của con hổ như một lời thề son sắt. Phải chăng đây chính là tiếng lòng của những người dân chán ghét cảnh đời nô lệ. Vì vậy mà lời thơ thống thiết nhưu tiếng vang sâu thẳm của lòng yêu nước.

Nhớ rừng" là bài thơ tuyệt bút. Nó được xếp vào loại 10 bài thơ hay nhất của Thơ mới. Hình tượng tráng lệ, kì vĩ. Lối diễn tả và sử dụng ngôn ngữ biến hóa. Chất nhạc đa thanh và phức điệu tạo nên những vần thơ du dương. Thơ nên họa nên nhạc như cuốn hút và làm mê say hồn ta.

Hình tượng chúa sơn lâm với nỗi nhớ rừng được nói đến với bao "lớp lớp sóng dồi". Trong nỗi đau sa cơ, thất thế có niềm kiêu hãnh tự hào. Bài thơ như một lời nhắn gửi thiết tha về tình yêu thương đất nước. Tư tưởng lớn nhất của bài thơ là nói lên cái giá tự do và khát vọng tự do.

Bài mẫu 2: Cảm nhận của em về bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Cảm nhận của em về bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Dàn ý

I. Mở bài

  • Đề tài yêu nước luôn là một đề tài lớn, xuyên suốt trong văn học Việt Nam
  • Đối với các nhà thơ Mới, họ thường gửi gắm nỗi niềm thầm kín trong thơ của mình và Thế Lữ cũng vậy, ông gửi gắm nỗi lòng yêu nước thông qua “Nhớ rừng”

II. Thân bài

1. (Đoạn 1+4): Cảnh con hổ bị nhốt trong vườn bách thú

a. Đoạn 1

  • Hoàn cảnh bị nhốt trong cũi sắt, trở thành một thứ đồ chơi
  • Tâm trạng căm hờn, phẫn uất tạo thành một khối âm thầm nhưng dữ dội như muốn nghiền nát, nghiền tan
  • “Ta nằm dài” – cách xưng hô đầy kiêu hãnh của vị chúa tể ⇒ Sự ngao ngán cảnh tượng cứ chầm chậm trôi, nằm buông xuôi bất lực
  • “Khinh lũ người kia”: Sự khinh thường, thương lại cho những kẻ (Gấu, báo) tầm thường nhỏ bé, dở hơi, vô tư trong môi trường tù túng

⇒ Từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, giọng thơ u uất diễn tả tâm trạng căm hờn, uất ức, ngao ngán

⇒ Tâm trạng của con hổ cũng giống tâm trạng của người dân mất nước, Căm hờn và phẫn uất trong cảnh đời tối tăm.

b. Đoạn 4

  • Cảnh tượng vẫn không thay đổi, đơn điệu, nhàm chán do bàn tay con người sửa sang ⇒ tầm thường giả dối

⇒ Cảnh tù túng đáng chán, đáng ghét

⇒ Cảnh vườn bách thú là thực tại của xã hội đương thời, thái độ của con hổ chính là thái độ cú người dân đối với xã hội đó

2. (Đoạn 2+3): Cảnh con hổ trong chốn giang sơn hùng vĩ

a. Đoạn 2

  • Cảnh núi rừng đầy hùng vĩ với “bóng cả cây già” đầy vẻ nghiêm thâm
  • Những tiếng “gió gào ngàn”, “giọng nguồn hét núi” ⇒ Sự hoang dã của chốn thảo hoa không tên không tuổi

⇒ Những từ ngữ được chọn lọc tinh tế nhằm diễn tả cảnh đại ngàn hùng vĩ, lớn lao mạnh mẽ, bí ẩn thiếng liêng

  • Bước chân dõng dạc đường hoàng ⇒ vẻ oai phong đầy sức sống

⇒ Vẻ oai phong của con hổ khiến tất cả đều phải im hơi, diễn tả vẻ uy nghi, dũng mãnh vừa mềm mại vừa uyển chuyển của vị chúa sơn lâm

b. Đoạn 3

  • “Nào đâu ... ánh trăng tan” ⇒ Cảnh đẹp diễm lệ khi con hổ đứng uống ánh trăng thật lãng mạn
  • “Đâu những ngày ...ta đổi mới” ⇒ Cảnh mưa rung chuyển đại ngàn, hổ lãng mạn ngắm giang sơn đổi mới.
  • “Đâu những bình minh...tưng bừng” ⇒ cảnh chan hòa ánh sáng, rộn rã tiếng chim ca hát cho giấc ngủ của chúa sơn lâm.
  • Cảnh tượng cuối cùng cho thấy hổ là loài mãnh thú đợi màn đêm buông xuống nó sẽ là chúa tể muôn loài

⇒ Một bộ tranh tứ bình đẹp lộng lẫy, cho thấy những cảnh thiên nhiên hoang vắng đẹp rợn ngợp và con hổ với tư thế và tầm vóc uy nghi, hoành tráng

3. (Đoạn 5): Niềm khao khát tự do mãnh liệt

  • Sử dụng câu cảm thán liên tiếp⇒ lời kêu gọi thiết tha ⇒ khát vọng tự do mãnh liệt nhưng bất lực

⇒ Nỗi bất hòa sâu sắc với thực tại và niềm khao khát tự do mãnh liệt

⇒ Tâm sự của con hổ chính là tâm sự của người dân Việt Nam mất nước đang sống trong cảnh nô lệ và tiếc nhớ những năm tháng tự do oanh liệt với những chiế thắng vẻ vang trong lịch sử

III. Kết bài

  • Khái quát nội dung và nghệ thuật chủ đạo làm nên thành công của tác phẩm.
  • Liên hệ bài học yêu nước trong thời kì hiện nay.

Bài viết

Thế Lữ (1907-1989) là bút danh của Nguyễn Thứ Lễ. Làm thơ, viết truyện, viết kịch, làm đạo diễn. Chủ tịch Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Phương diện nào ông cũng có thành tựu xuất sắc. Thế Lữ là thi sĩ tiên phong, được ngợi ca là "Đệ nhất thi sĩ' trong phong trào "Thơ mới" (1932-1941). Tác phẩm thơ: "Mấy vần thơ" thể hiện một "hồn thơ rộng mở”, với cảm hứng lãng mạn dào dạt, nồng nàn, say đắm và thiết tha.

Bài thơ "Nhớ rừng'' được Thế Lữ viết năm 1934, in trong tập "May vần thơ” xuất bản năm 1935. Mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn Bách thú, tác giả thể hiện tâm sự u uất, căm hờn và niềm khao khát tự do mãnh liệt của con người bị giam cầm, nô lệ.

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt.

Bị nhốt "trong cũi sắt", căm hờn uất hận đã chứa chất thành "khối", "gậm' mãi mà chẳng tan, càng "gậm" càng cay đắng. Chỉ còn biết "nằm dài" bất lực, đau khổ. Bị "giễu", bị "nhục nhằn tù hãm", trở thành "thứ đồ chơi'' cho "lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ''. Đau khổ nhất là chúa sơn lâm nay bị tầm thường hóa, vị thế bị xuống cấp:

"Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,

 Với cặp báo chuồng bên vô tự lự".

Đó là một nét tâm trạng điển hình đầy bi kịch của chúa sơn lâm khi bị sa cơ, thất thế, bị giam cầm. Trong hoàn cảnh lịch sử đất nước ta khi bài thơ ra đời (1934) thì nỗi tủi nhục, căm hờn, cay đắng của con hổ cũng đồng diệu với bi kịch của nhân dân ta trong xích xiềng nô lệ sống trong tăm tối "nhơ nhuốc lầm than".

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ.

"Tình thương nỗi nhớ" sống mãi, chẳng bao giờ quên. Nhớ "thuở tung hoành...", "nhớ cành sơn lâm bóng cả cây già". Nhớ khúc nhạc rừng hùng tráng dữ dội. Chữ “ nhớ” chữ "với" và cách ngắt nhịp (4-2-2, 5-5, 4-2-2...) biến hoá, cân xứng đã làm dội lên nỗi nhớ tiếc khôn nguôi, nhớ cồn cào, nhớ da diết. Sự phong phú về nhạc điệu đã khắc họa đời sống nội tâm vô cùng mạnh mẽ của một nhân vật phi thường từng có một quá khứ oanh liệt. Một tấm thán "như sóng cuộn nhịp nhàng". Một bước chân cao sang đầy uy lực ''dõng dạc, đường hoàng". Một cặp "mắt thần" và khi "đã quắc"; "mọi vật đều im hơi". Một sức mạnh của uy quyền bất khả xâm phạm.

Những vần thơ đầy nhạc điệu nói về nỗi nhớ:

"Nhớ cánh sơn lâm bóng cà cây già

Với tiếng giỏ gào ngàn, với giọng nguồn hét núi.

Với khi thét khúc trường ca dữ dội

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng

 Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc

Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc

Là khiến cho mọi vật đều im hơi..."

Các động từ "gào, hét, thét" đặc tả khúc trường ca dữ dội của rừng núi, suối ngàn thiêng liêng, hùng tráng. Đó là những câu thơ tuyệt bút làm sang trọng cho Thơ mới: "Ta nằm dài"... rồi "ta sống mãi trong tình thương nồi nhớ". Nhớ khi "ra bước chân lên...", nhớ một thời vàng son ngự trị:

"Ta biết ta chúa tế cả muôn loài,

Giữa chốn hào hoa không tên, không tuổi".

Một chữ "ta" vang lên đầy kiêu hãnh tự hào. Chúa sơn lâm được miêu tả được khắc hoạ trong chiều sâu của tâm linh, trong chiều cao của uy quyền được khẳng định.

Các câu hỏi tu từ liên tiếp xuất hiện như một nỗi niềm lay tỉnh và khêu gợi nỗi "nhớ' trào lên: "nào đâu những...", "đâu những ngày...", "đâu những bình minh...", "đâu những chiều...". Nhớ mãi không nguôi, nhớ đêm trăng và suối, nhớ những ngày mưa rừng, nhớ bình minh, nhớ giấc ngủ, nhớ tiếng chim ca. Và nhớ "những chiều lênh láng máu...". Đoạn thơ tráng lệ nói về bốn nỗi nhớ của chúa sơn lâm, nhớ triền miên ngày và đêm, sớm và chiều, mưa và nắng, thức và ngủ, lúc say mồi và lúc lặng ngắm, lúc đợi chờ... Một không gian nghệ thuật được tái hiện và mô tả qua bộ tứ bình của một nhà danh họa. Chúa sơn lâm có lúc mơ mộng giữa cảnh suối trăng, có lúc trầm ngâm trong chiêm nghiệm, có lúc nén xuống, kiên nhẫn đợi chờ để "tung hoành..." và "quắc mắt...”!

Đoạn thơ 10 câu này là đoạn thơ hay nhất trong bài "Nhớ rừng”:

"Nào đâu những đêm vùng bên bờ suối,

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan.'

Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới

Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

 Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

 Để ta chiếm lấy riêng phấn bí mật

- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?"

Sau nỗi nhớ một thuở vàng son, một thời oanh liệt, bỗng chúa sơn lâm chợt tỉnh mộng, trở về thực tại với cái cũi sắt, đau đớn và cay đắng vô cùng. Như một trái núi sụp đổ xuống, mãnh hổ cất lời than. Sự kết hợp giữa cảm thán với câu hỏi tu từ làm dội lên một lời thơ, một tiếng than của "hùm thiêng sa cơ'', của một kẻ phi thường thất thế. Đó cũng là tiếng thở dài của một lớp người khao khát tự do ngày ấy:

"Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?" 

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu.

Lại trở về nỗi buồn đau và nỗi nhớ "cảnh nước non hùng vĩ". Chỉ còn biết nhắn gửi thiết tha và bồn chồn:

 "Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!"

"Nhớ rừng" là bài thơ tuyệt bút. Nó được xếp vào loại 10 bài thơ hay nhất của Thơ mới. Hình tượng tráng lệ, kì vĩ. Lối diễn tả và sử dụng ngôn ngữ biến hóa. Chất nhạc đa thanh và phức điệu tạo nên những vần thơ du dương. Thơ nên họa nên nhạc như cuốn hút và làm mê say hồn ta.

Hình tượng chúa sơn lâm với nỗi nhớ rừng được nói đến với bao "lớp lớp sóng dồi". Trong nỗi đau sa cơ, thất thế có niềm kiêu hãnh tự hào. Bài thơ như một lời nhắn gửi thiết tha về tình yêu thương đất nước. Tư tưởng lớn nhất của bài thơ là nói lên cái giá tự do và khát vọng tự do.

Bài mẫu 3: Cảm nhận của em về bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

 Cảm nhận của em về bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Dàn ý

A. Mở bài:

  • Giới thiệu tác giả, tác phẩm: “Nhớ rừng” là bài thơ tiêu biểu của Thế Lữ - một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ mới.
  • Khái quát tâm trạng: Trong tác phẩm, trung tâm chính là tâm trạng con hổ trước thực tại tầm thường và quá khứ vàng son, qua đó nói về chính những con người Việt Nam đang trong hoàn cảnh mất nước.

B. Thân bài:

Luận điểm 1: Tâm trạng tủi nhục, phẫn uất, chán ghét khung cảnh thực tại.

  • Tác giả diễn tả trực tiếp tâm trạng con hổ bằng một loạt động từ mạnh:
    •  “Gậm một khối căm hờn”: Động từ “gậm” gợi ra sự gặm nhấm dần dần, từ từ từng chút một, không phải là một nỗi căm hờn mà là một “khối”. Câu thơ gợi ra tâm trạng tù túng, bế tắc của con hổ khi bị giam cầm.
    • Một loạt các động từ mạnh thể hiện sự khinh thường: “khinh”, “ngạo mạn”, “ngẩn ngơ”, “ giương mắt”,…
    • Những từ ngữ diễn tả trực tiếp tâm trạng: “nhục nhằn”, “làm trò”, “chịu”.

⇒ Tâm trạng phẫn uất, chán ghét đến tột đỉnh khi bị giam cầm, bị coi làm trò đùa cho lũ người nhỏ bé tầm thường của con hổ - biểu tượng của rừng xanh oai linh.

  • Tâm trạng chán ghét, khinh thường sự tầm thường, giả dối của thực tại:
    • “ôm nỗi uất hận ngàn thâu”: Tâm trạng phẫn uất, căm hận của con hổ như được đẩy lên đến đỉnh điểm khi chứng kiến những cảnh tầm thường, giả dối trước mắt: “ghét những cảnh…”

Luận điểm 2: Tâm trạng nuối tiếc, nhớ nhung khi nhớ về quá khứ vàng son ở chốn sơn lâm

  • Tiếp tục sử dụng từ ngữ bộc lộ trực tiếp tâm trạng: “tình thương nỗi nhớ”, “ngày xưa”, “nhớ”
  • Hình ảnh con hổ khi còn là chúa tể rừng xanh được khắc họa lại bằng một loạt những hình ảnh cụ thể, gợi hình: “dõng dạc”, “đường hoàng”, “lượn tấm thân”, “ vờn bóng”, “quắc”, thể hiện sự uy nghiêm, lẫm liệt, xứng đáng là “chúa tể cả muôn loài”.
  • Nhớ về quá khứ, con hổ nhớ về những kỉ niệm chốn rừng xanh với tâm trạng nuối tiếc.
  • Điệp từ “nào đâu”, điệp cấu trúc kết hợp với một loạt câu hỏi tu từ cùng các hình ảnh có giá trị gợi cảm cao: “những đêm vàng” – “ta say mồi”, “những ngày mưa” – “ta lặng ngắm”, “ những bình minh” – “giấc ngủ ta tưng bừng”, “những chiều” – “ta đợi chết…”.
  • Câu cảm thán cuối đoạn “than ôi!” kết hợp với câu hỏi tu từ “thời oanh liệt nay còn đâu?” như một lời than thở, tiếc nuối cho chính số phận mình.

Luận điểm 3: Khao khát được tự do của con hổ

  • Sống trong cũi sắt, chứng kiến những điều chán ghét tầm thường, con hổ khao khát được trở về với đại ngàn sâu thẳm, trở về với tự do, với thân phận đáng có của nó. Dù chỉ là trong giấc mộng, con hổ cũng muốn đưa hồn mình trở về với núi non
    • Câu cảm thán cuối bài vừa thể hiện sự tiếc nuối, vừa thể hiện khao khát tự do mãnh liệt đang bùng cháy trong lòng con hổ.
  • Thông qua tâm trạng con hổ, tác giả muốn nói về tâm trạng của hàng nghìn thanh niên yêu nước Việt Nam đang phải chịu sự kìm kẹp, giam lỏng của bọn thực dân, đó là tâm trạng khinh thường, chán ghét sự giả dối, xảo trá của giặc, đó là nỗi nhớ, niềm tự hào về quá khứ, về độc lập dân tộc, và là khao khát tự do, phá nát cái gọng kìm của bọn thực dân.

C. Kết bài:

  • Khái quát lại tâm trạng con hổ: Nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khao khát tự do mãnh liệt.
  • Liên hệ, đánh giá nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật của Thế Lữ

Bài viết

Nhớ rừng là một bài thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Nó cũng là một bài in được dấu ấn đậm và bền trong nhiều thế hệ bạn đọc . Tác giả của nó - thi sĩ Thế Lữ, là một nhà thơ tài năng, người có công đầu trong phong trào Thơ mới. Có thể nói ông đã nhập thân hoàn toàn vào hình tượng con hổ trong bài, mượn con hổ để bộc lộ tâm sự của một thanh niên trí thức trước cuộc đời tù túng, nô lệ.

Thế Lữ là một trong những nhà thơ hàng đầu của phong trào Thơ mới. Khi ông xuất hiện trên thi đàn, như vầng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam. Ông không bàn về thơ Mới, không bênh vực thơ Mới, không bút chiến, không diễn thuyết, Thế Lữ chỉ lặng lẽ, điềm nhiên bước những bước vững vàng, mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ. Ông đã "làm rạn vỡ những khuôn khổ ngàn năm không di dịch" theo như nhận xét của nhà nghiên cứu Hoài Thanh và Hoài Chân. Với bài thơ Nhớ rừng, ta tưởng chừng như thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường.

Lời bài thơ là lời của con hổ trong vườn bách thú, vậy con hổ đó có những tâm trạng gì? Và qua tâm trạng của chúa sơn lâm, nhà thơ muốn gửi gắm điều gì? Mở đầu bài thơ, là tâm trạng u uất của chú hổ:

"Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,

Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.

Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,

Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm,

Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,

Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.

Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,

Với cặp báo chuồng bên vô tư lự."

Thật vậy, từ xưa đến nay, hổ được mệnh danh là chúa tể của rừng xanh. Thế nhưng, giờ đây, nó bị nhốt trong vườn bách thú, trong một cái lồng sắt. Vì thế, nó đang ngày đêm "gậm một khối căm hờn trong cũi sắt". "Gậm" - động từ mạnh, không phải là nhai ngấu nghiến mà nghiến từ từ cho đến lúc nát ra. Câu thơ chủ yếu vần trắc, thể hiện được nỗi căm phẫn, uất hận, căm tức của con hổ khi nó bị nhốt ở trong vườn bách thú. Con hổ như đang muốn phá tan tất cả mọi thứ vì nỗi căm tức đang dâng trào trong lòng nó. Niềm căm phẫn dâng lên cao độ, chuyển thành nỗi chán chường: "Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua". Câu thơ 8 chữ nhưng có đến 7 chữ là vần bằng, thể hiện nỗi chán ngán, buông xuôi, bất lực của chúa tể rừng xanh. Với vị trí là chúa tể của muôn loài, nay bị "sa cơ" vào vòng "tù hãm", hơn nữa còn trở thành một "trò lạ mắt", "thứ đồ chơi" và còn bị nhốt chung với những con vật thấp hèn như "bọn gấu dở hơi", với cặp báo "vô tư lự", hổ ta cảm thấy nhục nhã, ê chề biết bao nhiêu.

Như vậy, chỉ một khổ thơ ngắn ngủi thôi, nhưng chúng ta thấy được diễn biến tâm lí của con hổ rất phức tạp. Mạch cảm xúc của bài thơ tiếp tục theo dòng hồi tưởng của con hổ, quay về với những "tình thương và nỗi nhớ" luôn chực trào trong tim:

"Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,

Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa.

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,

Với khi thét khúc trường ca dữ dội,"

Từ chỗ căm ghét chốn thảo cầm viên, con hổ thả hồn về với ngày xưa. Đó là những năm tháng huy hoàng, năm tháng tự do khi mà nó có thể tự do, tự tại "tung hoành" trong chốn "sơn lâm, bóng cả, cây già". Con hổ nhớ biết bao nhiêu cảnh rừng xanh, nơi luôn có tiếng gió "gào ngàn", có giọng "hét núi" với những "khúc trường ca dữ dội". Nó nhớ những gì là oai hùng, rực rỡ, dữ dội nhất của cảnh rừng đại ngàn. Hơn nữa, nó còn nhớ đến hình dáng, khí thế của một con hổ trong vai trò là chúa tể của muôn loài. Đó là một con hổ oai phong, lẫm liệt:

"Ta bước chân lên dõng dạc, đường hoàng

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng

Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc

Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,

Là khiến cho mọi vật đều im hơi

Ta biết ta chúa tể của muôn loài"

Hình ảnh chúa sơn lâm hiện lên trong bốn câu thơ này thật đẹp biết bao. Thế Lữ đã khắc họa được niềm kiêu hãnh của con hổ khi có một hình dáng vừa mềm mại, vừa rất nhanh: "lượn tấm thân như sóng cuộn", khi có một khí thế oai hùng: "dõng dạc, đường hoàng", khi đứng ở vị trí cao nhất của rừng xanh: "chúa tể của muôn loài".

Nỗi nhớ rừng xanh, nhớ về một thời huy hoàng, tự do đến cồn cào da thịt. Vậy nhưng, giờ đây, tất cả đã không còn nữa:

"Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan

...

- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?"

Một loạt điệp ngữ: "nào đâu, đâu những"... cứ lặp đi lặp lại, diễn tả thấm thía nỗi nhớ tiếc khôn nguôi của con hổ đối với những cảnh không bao giờ còn thấy nữa. Và giấc mơ huy hoàng đó đã khép lại trong tiếng than u uất: "- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?". Câu thơ sử dụng thán từ và kiểu câu cảm thán, thể hiện sự nuối tiếc sâu sắc của con hổ về những gì tươi đẹp nhất khi nó được sống trong rừng xanh.

Từ sự hồi tưởng về quá khứ tươi đẹp với một thái độ rất đỗi tự hào, con hổ trở về với thực tại với nỗi chán ghét đến tận cùng:

"Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,

Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,

Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;"

Nếu như chốn đại ngàn tươi đẹp, huy hoàng bao nhiêu thì vườn bách thú - nơi mà nó đang sống hiện giờ lại là một chốn tầm thường, giả tạo, tất cả đều từ bàn tay của con người, và bắt chước vẻ đẹp của tự nhiên một cách vụng về, lố lăng. Đó không phải là cảnh rừng chân thật, tự nhiên, cao cả.

Khinh thường, căm tức với thực tại, chúa tể rừng xanh khao khát được trở về với nơi núi non hùng vĩ, nơi "thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa", nơi con hổ được tự do, tự tại. Trong lòng nó, dù có như thế nào, luôn nuôi theo một "giấc mộng ngàn to lớn" - giấc mộng được trở về với rừng xanh, với núi rừng đại ngàn để được sống lại những giây phút huy hoàng ngày xưa.
 
Con hổ nhớ rừng, nhớ một thời oanh liệt đã qua chính vì nó đang "ngao ngán" trước cuộc sống tù hãm mất tự do. Đấy cũng chính là tâm sự u uất của một lớp người lúc bấy giờ. Đó là "thế hệ 1930", những thanh niên trí thức "Tây học" vừa thức tỉnh ý thức cá nhân, cảm thấy bất hòa sâu sắc với thực tại xã hội tù túng, giả dối, ngột ngạt đương thời. Họ khao khát cái "tôi" được khẳng định và phát triển trong một cuộc sống rộng lớn, tự do. Hơn nữa, đó cũng là tâm sự chung của người dân Việt Nam trong cảnh mất nước lúc bấy giờ. Bài thơ Nhớ rừng đã nói giùm họ nỗi đau khổ vì thân phận nô lệ, sống "nhục nhằn, tù hãm" trong "cũi sắt", đã khơi dậy trong họ niềm khát khao tự do cùng nỗi nhớ tiếc "thời oanh liệt" đầy tự hào trong lịch sử dân tộc. Vì vậy, Nhớ rừng đã có được sự đồng cảm đặc biệt rộng rãi, có tiếng vang lớn. Thế nên, có thể coi đây là một áng thơ yêu nước, tiếp nối mạch thơ trữ tình yêu nước trong văn thơ hợp pháp đầu thế kỷ XX.

Có thể nói Thế Lữ đã chứa chất vào lời con hổ trong vườn này tâm sự của các thế hệ cùng lứa với nhà thơ. Và cũng không riêng gì một thế hệ. Ai là người Việt Nam còn chút lòng yêu nước, còn biết nghĩ, mà chẳng cảm nhận xót xa nỗi hờn mất nước? Ai đã từng đọc qua lịch sử dân tộc, có ít nhiều ý thức về nền “văn hiến” đã lâu “của đất nước, mà chẳng ngán ngẩm với thứ văn minh hào nhoáng pha tạp thời thực dân? Người Việt Nam chưa mất gốc nào mà chẳng ủ ấp hi vọng được “thênh thang (...) vùng vẫy”, được “ngự trị” trên “nước non hùng vĩ” của mình, tương tự chú hổ ở vườn thú kia vẫn không nguôi “giấc mộng vàng to lớn” của nó.

Cảm nhận của em về bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ
Phần trên, hocthoi.net đã soạn đầy đủ lý thuyết và bài tập của bài học: Văn mẫu lớp 8: Cảm nhận của em về bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ . Bài học nằm trong chuyên mục: Văn mẫu lớp 8. Phần trình bày do hanoi tổng hợp và thực hiện giải bài. Nếu có chỗ nào chưa rõ, có phần nào muốn hiểu rộng thêm, bạn đọc vui lòng comment bên dưới. Ban biên tập sẽ giải đáp giúp các bạn trong thời gian sớm nhất.

Bài soạn các môn khác

Bình luận