[toc:ul]
Bài mẫu 1: Chứng minh rằng trong đoạn trích “Nổi oan hại chồng" nhân vật Thị Kính không chỉ chịu khổ vì bị ngỡ oan mà còn mang nỗi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu sang tàn ác khinh rẻ.
Dàn ý:
1. Mở bài: Từ lâu, nhân dân ta lưu truyền câu thành ngữ đã trở nên hết sức quen thuộc “Oan Thị Kính”. Đây là thành ngữ dùng để chỉ những nỗi oan ức đến cùng cực, nỗi oan không thể giãi bày.
Đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” kể về đoạn đời đầy bất hạnh của người phụ nữ lương thiện ấy.
2. Thân bài:
Trước hết, nỗi khổ đau của Thị Kính phải chịu đựng bắt nguồn từ việc bị ngờ oan:
- Dẫn chứng cm:
- Chỉ vì thấy chồng có “dị hình sắc dưới cằm mọc ngược, tiện có con dao sắc đang cầm trong tay, nàng định bụng sẽ xén chiếc râu quái ác ấy. Nhưng oái oăm thay, thấy nàng cầm con dao, bà mẹ chồng Sùng Bà - dồn dập đổ xuống đầu nàng những lời buộc tội và căn cứ là định giết chồng
- Nguyên nhân giết chồng là do nàng đã “trót say hoa đắm nguyệt”, “đã trên dâu dưới bộc hẹn hò”. Nỗi oan ấy chẳng hề bày tỏ cùng ai.
Ngờ oan cho con dâu chỉ là cái cớ để bà mẹ chồng tàn ác kia khinh miệt, nhục mạ xuất thân nghèo hèn của nàng.
Xung đột kịch đã đẩy lên tới đỉnh điểm là lúc Thị Kính chạy lại cha đẻ sau cái dúi ngã tàn nhẫn của Sùng Ông, rồi hai thân phận nghèo hèn ấy ôm nhau than khóc cho nỗi đau đớn, nhục nhã của những thân phận nhỏ bé bị chà đạp bởi những kẻ giàu có tàn ác.
3. Kết bài:
- Rõ ràng, quan hệ giữa Sùng Bà và Thị Kính không còn đơn giản là quan hệ mẹ chồng - nàng dâu mà nó đại diện cho mối quan hệ giàu - nghèo, sang - hèn
- Những kẻ giàu có tàn ác luôn luôn tìm cách chà đạp, vùi dập những con người nghèo khổ trong xã hội.
Bài viết
Từ lâu, nhân dân ta lưu truyền câu thành ngữ đã trở nên hết sức quen thuộc “Oan Thị Kính”. Đây là thành ngữ dùng đểchỉ những nỗi oan ức đến cùng cực, nỗi oan không thể giãi bày. Thế nhưng, nhân vật của câu thành ngữ - Thị Kính - không chỉ chịu khổ vì bị ngờ oan mà còn mang nỗi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu sang tàn ác khinh rẻ. Đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” kể về đoạn đời đầy bất hạnh của người phụ nữ lương thiện ấy.
Trước hết, nỗi khổ đau của Thị Kính phải chịu đựng bắt nguồn từ việc bị ngờ oan. Khi chồng “dùi mài kinh sử” đã đến hồi mệt mỏi cần được nghỉ ngơi, người vợ hiền - Thị Kính đã ân cần ngồi quạt cho chồng. Chăm sóc chồng không chỉ là việc làm của người vợ đảm đang mà đối với họ còn là một hạnh phúc. Thị Kính cũng thế. Song khi nàng muốn được chăm sóc cho chồng nhất, muốn được hưởng niềm hạnh phúc của người vợ thì lại là lúc nàng gặp phải sự đùa cợt của số phận. Nhìn thấy Thiện Sĩ có “dị hình sắc dưới cằm mọc ngược” và “dạ thương chồng” vì “trước đẹp mặt chàng sau đẹp mặt ta”, tiện có con dao sắc đang cầm trong tay, nàng định bụng sẽ xén chiếc râu quái ác ấy. Nhưng oái oăm thay, Thiện Sĩ “chợt giật mình tỉnh dậy” tình ngay mà lí gian, con dao trong tay nàng không còn là con dao làm đẹp cho chồng mà trở thành bằng chứng của một âm mưu tàn ác. Thực hư ra sao chẳng cần xét hỏi, bà mẹ chồng Sùng Bà - dồn dập đổ xuống đầu nàng những lời buộc tội và căn cứ:
“Cái mặt con sứa gan lim này! Mày định giết con bà à”
Yêu và thương chồng hết mực, một mảy may ý định giết chồng nàng cũng không hề nghĩ tới. Vậy việc làm chẳng hề có ấy qua lời của mụ thì “rõ rành rành mười mắt đều trông”. Đau đớn quá, oan ức quá! Nỗi oan chẳng dừng lại ở đó. Người vợ thủy chung tình nghĩa mang thêm tội ăn ở hai lòng với sự suy diễn trắng trợn từ Sùng Bà. Nguyên nhân giết chồng là do nàng đã “trót say hoa đắm nguyệt”, “đã trên dâu dưới bộc hẹn hò”. Nỗi oan ấy chẳng hề bày tỏ cùng ai. Người chồng nhu nhược đớn hèn chỉ biết làm ngơ trước tình cảm của người vợ “nghĩa nặng tình sâu”, “trăm năm kết tóc”. Ba lần tiếng kêu thảm thiết Thị Kính hướng về mẹ chồng thì bị đáp trả bằng những lời buộc tội thêm một chồng chất, bằng cú dúi tay ngã khụy nhẫn tâm.
Thế nhưng, chúng ta đều biết rằng tội của nàng không phải vi phạm vào “tam tòng tứ đức” mà là tội nghèo. Ngờ oan cho con dâu chỉ là cái cớ để bà mẹ chồng tàn ác kia khinh miệt, nhục mạ xuất thân nghèo hèn của nàng, lấy cho con trai người vợ “không môn đăng hộ đối” chắc hẳn Sùng Bá âm ỉ mang trong lòng sự căm ghét với con dâu. Chỉ có những “nơi công hầu” mới xứng đáng sánh đôi cùng con trai bà, bởi “nhà bà đây cao môn lệnh tộc” nhà bà đây “giống phượng giống công”. Khác với vẻ khoe khoang vênh váo khi nói về dòng giống của mình, Sùng Bá không tiếc lời khinh bỉ, coi thường khi nhắc tới gia đình Thị Kính. Cái loại “mèo mả gà đồng”, cái loại “con nhà cua ốc” mà lại là con dâu bà thì thật là điều ô nhục. Suốt đời, những thân phận nghèo hèn chỉ thuộc địa vị thấp kém, mãi mãi không thể ngẩng đầu được:
Trứng rồng lại nở ra rồng
Liu điu lại nở ra dòng liu điu.
Người xưa thật tài tình với những hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, với việc đặt vào cái miệng nanh nọc của Sùng Bà một thứ ngôn ngữ phong phú đa dạng đến thế. Đáng thương thay cho Thị Kính, bị hành hạ về mặt tinh thần chưa đủ, nàng còn phải chịu đựng những hành vi tàn ác và rất thô bạo từ người mẹ chồng quyền quý, giàu sang. Hai lần, dưới bàn tay thô bạo của Sùng Bà, Thị Kính đã ngã xuống. Cả hai lần đều là chỉ Thị Kính mở miệng kêu oan. Khi đã rũ rượi vì khóc than đau đớn, nàng còn phải ngửa mặt lên để hứng những lời lẽ cay độc. Sùng Bà có lẽ đã giận mình không thể “chém bổ băm vàm xả xích mặt” nàng ra.
Xung đột kịch đã đẩy lên tới đỉnh điểm là lúc Thị Kính chạy lại cha đẻ sau cái dúi ngã tàn nhẫn của Sùng Ông, rồi hai thân phận nghèo hèn ấy ôm nhau than khóc. Còn nỗi đau, nỗi nhục nào hơn khi một con người bất lực trước việc cha đẻ bị khinh bỉ, hành hạ. Người cha tội nghiệp ấy cũng vì nghèo hèn mà trở thành nạn nhân của trò đùa tai quái do vợ chồng Sùng Bà bày ra: gọi ông sang ăn cữ cháu nhưng thực chất là trả lại cô con gái “lăng loàn”. Họ khóc than cho nỗi đau đớn, nhục nhã của những thân phận nhỏ bé bị chà đạp bởi những kẻ giàu có tàn ác.
Rõ ràng, quan hệ giữa Sùng Bà và Thị Kính không còn đơn giản là quan hệ mẹ chồng - nàng dâu mà nó đại diện cho mối quan hệ giàu - nghèo, sang - hèn và trở thành quan hệ không thể điều hòa và giải quyết được, đó là quan hệ giai cấp. Những kẻ giàu có tàn ác luôn luôn tìm cách chà đạp, vùi dập những con người nghèo khổ trong xã hội. Đáng thương thay, người phụ nữ yếu đuối lại là nạn nhân của thói đời đen bạc, của sự bất công vô lí ấy.
Bài mẫu 2: Chứng minh rằng trong đoạn trích “Nổi oan hại chồng" nhân vật Thị Kính không chỉ chịu khổ vì bị ngỡ oan mà còn mang nỗi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu sang tàn ác khinh rẻ.
Dàn ý:
1. Mở bài:
- Quan Âm Thị Kính là vở chèo nổi tiếng trong kho tàng văn học dân tộc.
- Qua đoạn trích Nỗi oan hại chồng đã thể hiện qua nhân vật Thị Kính với nỗi oan ức không gì thanh minh được và đặc biệt là nỗi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu có, tàn ác khinh rẻ.
2. Thân bài:
Nội dung tác phẩm:
- Đoạn trích bắt đầu bằng cảnh Thiện Sĩ ngồi đọc sách rồi thiu thiu ngủ.
- Thị Kính định lấy dao khâu xén sợi râu mọc ngược cho chồng thì ngờ đâu Thiện Sĩ giật mình tỉnh dậy hô hoán lên. Sùng ông, Sùng bà vốn không ưa Thị Kính, thấy thế bèn vu ngay cho Thị Kính tội có ý giết chồng
- Sùng ông gọi Mãng ông (bố Thị Kính) sang. Sau khi làm cho hai bố con phải nhục nhã, khổ sở, hai vợ chồng bỏ vào nhà trong để mặc bố con Thị Kính ôm nhau than khóc rồi đưa nhau về.
Số phận, nhận vật:
- Nổi bật trong đoạn này là hình ảnh Thị Kính, người phụ nữ hết lòng thương yêu chồng.
- Hành động cầm dao cắt râu mọc ngược giúp chồng chính là, thể hiện những tình cảm nồng nàn và chân thực của người phụ nữ yêu chồng.
- Thị Kính bị khinh khi, lăng nhục với những lời lẽ của một kẻ tàn nhẫn và độc ác, hợm hĩnh, tự coi mình là tầng lớp trên, coi thường những người khác, nhất là những người lao động của Sùng Bà
- Bao lần kêu oan nhưng không thấy ngay đến cả cha ruột của mình cũng bất lực không thể làm gì để giúp đỡ con gái.
- Hai cha con bị đuổi về một cách nhục nhã
=>Nhân vật Thị Kính đã bị đẩy khỏi cuộc sống đời thường một cách bất ngờ, đau đớn đầy tủi nhục.
3. Kết bài: Đoạn trích còn thể hiện những xung đột giai cấp gay gắt trong xã hội phong kiến xưa và đó là tiền đề để những người dân lao động nghèo khổ bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp vốn có của mình: chất phác, thật thà, nhân hậu, vị tha...
Bài viết
Quan Âm Thị Kính là vở chèo nổi tiếng trong kho tàng văn học dân tộc. Tác phẩm có một sức sống bền bỉ, dài lâu theo suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Chính những giá trị hiện thực và nhân đạo đã làm nên sức sống trường tồn cho tác phẩm. Chỉ qua đoạn trích Nỗi oan hại chồng, ta đã cảm nhận được những giá trị to lớn ấy. Điều đó được thể hiện qua nhân vật Thị Kính với nỗi oan ức không gì thanh minh được và đặc biệt là nỗi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu có, tàn ác khinh rẻ.
Đoạn trích bắt đầu bằng cảnh Thiện Sĩ ngồi đọc sách rồi thiu thiu ngủ. Thị Kính ngồi khâu bên cạnh, thấy một sợi râu của chồng mọc ngược, cho là không tốt, định lấy dao khâu xén đi. Ngờ đâu Thiện Sĩ giật mình tỉnh dậy hô hoán lên. Sùng ông, Sùng bà vốn không ưa Thị Kính, thấy thế bèn vu ngay cho Thị Kính tội có ý giết chồng. Rồi mặc cho Thị Kính thanh minh, van xin, Sùng ông, Sùng bà đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Sùng ông gọi Mãng ông (bố Thị Kính) sang. Sau khi làm cho hai bố con phải nhục nhã, khổ sở, hai vợ chồng bỏ vào nhà trong để mặc bố con Thị Kính ôm nhau than khóc rồi đưa nhau về.
Nổi bật trong đoạn này là hình ảnh Thị Kính, người phụ nữ hết lòng thương yêu chồng. Khi chồng ngủ, Thị Kính ngồi quạt cho chồng. Cũng vì yêu chồng, ngắm chồng khi chồng ngủ, Thị Kính mới phát hiện ra một chiếc râu mọc ngược. Với suy nghĩ rất bình thường, giản dị “Trước đẹp mặt chồng, sau đẹp mặt ta”, Thị Kính đã toan lấy dao khâu xén chiếc râu đó đi. Những suy nghĩ và hành động của Thị Kính rất tự nhiên, thể hiện những tình cảm nồng nàn và chân thực của người phụ nữ yêu chồng.
Nhưng Thiện Sĩ đã không hiểu được điều đó. Và nhất là Sùng bà thì càng không hiểu. Trong hành động và ngôn ngữ, Sùng bà tỏ ra là một kẻ tàn nhẫn, độc ác, không những thế lại coi thường những người lao động nghèo khổ. Bà ta dúi đầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính phải ngửa mặt lên (một kiểu hạ nhục người khác). Rồi không cho Thị Kính được phân bua, thanh minh, mụ dúi tay đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống, nhất quyết trả Thị Kính về cho gia đình. Không chỉ vậy, Sùng bà còn đay nghiến mắng nhiếc Thị Kính thậm tệ. Điều quan trọng nhất là cách mắng chửi của Sùng bà đối với Thị Kính không phải là lời mắng của mẹ đối với con, cũng không phải là của một bà mẹ chồng đối với con dâu của mình. Mà đó là những lời lẽ của một kẻ tàn nhẫn và độc ác, hợm hĩnh, tự coi mình là tầng lớp trên, coi thường những người khác, nhất là những người lao động. Sùng bà tức giận, chửi mắng Thị Kính thậm tệ không hẳn vì Thị Kính định hại con bà mà cơ bản là vì sự chênh lệch đẳng cấp giữa hai gia đình. Thị Kính là con nhà nghèo mà lại dám bước vào, hơn thế nữa lại là nàng dâu, trở thành người trong gia đình mụ.
Trước nỗi oan khuất, Thị Kính không biết làm gì khác, chỉ một mực kêu oan. Thị Kính đã kêu oan tới năm lần. Bốn lần trước là hướng đến mẹ chồng và chồng (“Oan con lắm mẹ ơi!”, “Oan thiếp lắm chàng ơi”!). Cả bốn lần, lời kêu oan của Thị Kính chỉ như đổ thêm dầu vào lửa, bởi Thiện Sĩ chỉ là một kẻ bạc nhược, đớn hèn, còn Sùng bà thì hiển nhiên không muốn chấp nhận Thị Kính là dâu con trong nhà. Chỉ đến lần thứ năm, lời kêu oan của Thị Kính mới nhận được sự cảm thông, nhưng đó lại chỉ là của Mãng ông: “Oan cho con lắm à?”. Một sự cảm thông đau khổ và bất lực. Mãng ông biết con gái bị oan nhưng biết phận mình chỉ là một người nông dân nghèo, không có vị thế trong xã hội - lại là xã hội phong kiến - ông không thể làm gì để giúp đỡ con gái.
Sùng ông, Sùng bà thật là những kẻ độc ác đến tàn nhẫn. Đuổi Thị Kính ra khỏi nhà chưa thỏa, trước khi đuổi, chúng còn bày ra một màn kịch độc ác nhằm làm cho cha con Thị Kính phải nhục nhã ê chề. Sùng ông gọi Mãng ông sang để nhận con gái về, lại nói: Ông Mãng ơi, ông sang mà ăn cữ cháu! Mãng ông tưởng thật, đang nói giọng hoan hỉ thì bị giội ngay gáo nước lạnh: “Đây này! Đang nửa đêm nó cầm đao giết chồng đây này!”. Không những thế, Sùng ông còn thẳng thừng cự tuyệt quan hệ thông gia với Mãng ông bằng cách dúi ngã Mãng ông rồi bỏ vào nhà.
Xung đột kịch đã được đẩy đến mức cao nhất: Thị Kính không những bị đẩy vào cảnh tan vỡ hạnh phúc vợ chồng, bị chửi mắng, hành hạ mà còn phải chứng kiến cảnh người cha già yếu bị chính bố chồng làm cho nhục nhã, khổ sở. Hình ảnh hai cha con ôm nhau khóc là hình ảnh của những người chịu oan, đau khổ mà hoàn toàn bất lực. Đó là bi kịch điển hình của những người dân nghèo, nhất là những người phụ nữ nông thôn trong xã hội cũ. Khi Mãng ông bảo Thị Kính về theo mình, Thị Kính đi theo cha mấy bước, rồi dừng lại, quay nhìn vào từ cái kỉ đến sách, thúng khâu, rồi cầm lấy chiếc áo đang khâu dở, bóp chặt trong tay. Cử chỉ và lời hát của Thị Kính thể hiện rất nhiều ý nghĩa:
Thương ôi! Bấy lâu sắt cầm tịnh hảo
Bỗng ai làm chăn gối lẻ loi...
Những cặp từ ngữ “bấy lâu - bỗng; sắt cầm- chăn gối lẻ loi”...với sắc thái ý nghĩa đối lập diễn tả hai trạng thái trái ngược nhau được chuyển đổi rất đột ngột. Từ cảnh “sắt cầm tịnh hảo” (ý nói tình vợ chồng hòa hợp đầm ấm) đến cảnh “chăn gối lẻ loi” (vợ chồng chia lìa) chỉ là trong phút chốc. Bên này là hạnh phúc, bên kia là cảnh chia lìa. Nhân vật Thị Kính đã bị đẩy khỏi cuộc sống đời thường một cách bất ngờ, đau đớn đầy tủi nhục.
Có thể nói, xây dựng đoạn trích Nỗi oan hại chồng, tác giả dân gian đã thể hiện niềm đồng cảm sâu sắc với nhân vật Thị Kính nói riêng và tầng lớp dân lao động nói chung. Đoạn trích còn thể hiện những xung đột giai cấp gay gắt trong xã hội phong kiến xưa và đó là tiền đề để những người dân lao động nghèo khổ bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp vốn có của mình: chất phác, thật thà, nhân hậu, vị tha...
Bài mẫu 3: Chứng minh rằng trong đoạn trích “Nổi oan hại chồng" nhân vật Thị Kính không chỉ chịu khổ vì bị ngỡ oan mà còn mang nỗi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu sang tàn ác khinh rẻ.
Dàn ý:
1. Mở bài: Nhân vật Thị Kính trong đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” (trích vở chèo "Quan Âm Thị Kính") là một trong số đó. Nàng không chỉ chịu khổ vì bị oan mà còn mang nồi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu có, tàn ác khinh rẻ.
2. Thân bài:
Diễn biến câu chuyện:
- Thiện Sĩ ngồi đọc sách rồi thiu thiu ngủ.
- Thị Kính định lấy dao khâu xén sợi râu mọc ngược cho chồng thì ngờ đâu Thiện Sĩ giật mình tỉnh dậy hô hoán lên. Sùng ông, Sùng bà vốn không ưa Thị Kính, thấy thế bèn vu ngay cho Thị Kính tội có ý giết chồng
- Sùng ông gọi Mãng ông (bố Thị Kính) sang. Sau khi làm cho hai bố con phải nhục nhã, khổ sở, hai vợ chồng bỏ vào nhà trong để mặc bố con Thị Kính ôm nhau than khóc rồi đưa nhau về.
=> Bi kịch cuộc đời của một người phụ nữ:
- Bị khinh khi lăng mạ nhục nhã
- Kêu oan nhưng không ai tin
- Bị mẹ chồng coi khinh vì xuất thân gia cảnh, đổ cho là hai lòng, cố ý mưu sát chồng
- Trả Thị Kính về cho bố mẹ nàng bằng một cách nhục nhã nhất
3. Kết bài: Phản ánh bi kịch lên đến tột cùng trong số phận của nhân vật Thị Kính, tác giả dân gian đã lên án những tư tưởng phong kiến bảo thủ, thối nát cướp mất quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của người dân lao động, đặc biệt là người phụ nữ.
Bài viết
Dòng văn học dân gian Việt Nam giàu giá trị nhân đạo luôn quan tâm đến việc bênh vực cho quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ. Để truyền đạt tư tưởng ấy, nhân dân đã xây dựng những hình tượng người phụ nữ đẹp đẽ, vẹn toàn bị áp bức chà đạp nặng nề. Nhân vật Thị Kính trong đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” (trích vở chèo "Quan Âm Thị Kính") là một trong số đó. Nàng không chỉ chịu khổ vì bị oan mà còn mang nồi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu có, tàn ác khinh rẻ.
Thị Kính sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo nhưng lại về làm dâu một gia đình địa chủ, nhà Thiện Sĩ. Trong đêm thanh vắng, nàng ngồi may vá để thức cùng chồng giúp người đọc sách. Khi Thiện Sĩ ngủ quên, nàng âu yếm nhìn chồng rồi phát hiện ra cái râu mọc ngược. Hành động cầm dao cắt cái râu ấy cho chồng hoàn toàn xuất phát từ thiện ý giúp chồng đẹp hơn. Nhưng bất hạnh cho nàng, Thiện Sĩ bất ngờ tỉnh dậy hiểu nhầm hành động ấy rồi hô hoán cha mẹ. Sùng bà, Sùng ông coi việc làm của Thị Kính là mưu sát chồng.
Trước tình hình ấy, Thị Kính chỉ còn biết một mực kêu oan. Nàng kêu oan đến năm lần, trong đó bốn lần đầu hướng đến mẹ chồng và chồng:
"Mẹ ơi, oan cho con lắm mẹ ơi!",
“Oan cho con lắm mẹ ơi!”,
“Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi!,
“Oan thiếp lắm chàng ơi!”.
Nhưng cả bốn lần, lời kêu oan của Thị Kính chỉ như đổ thêm dầu vào lửa. Bởi Sùng bà trước sau là một kẻ độc ác, tàn nhẫn không chấp nhận vị trí của Thị Kính trong nhà mụ. Còn Thiện Sĩ chỉ là một kẻ ngu muội, bạc nhược, đớn hèn. Chỉ đến lần thứ năm, lời kêu oan của Thị Kính mới nhận được sự cảm thông, đó là của Mãng ông, cha nàng: "Oan cho con lắm à?" nhưng cay đắng thay: “Dù oan dù nhẫn chẳng oan. Xa xôi cha biết nỗi con nhường nào?”. Đó lại là một sự cảm thông đau khổ và bất lực. Mãng ông biết con gái bị oan nhưng chỉ là một người nông dân nghèo, không có vị thế trong xã hội, ông không thể làm gì để giúp đỡ con gái. Người phụ nữ ấy gặp phải cái án hàm oan tình ngay lí gian không sao tự minh oan chiếu tuyết được. Từ đó, nàng rơi vào bi kịch với cái án oan nghiệt: giết chồng.
Nhưng đó chưa phải bi kịch lớn nhất của người phụ nữ bất hạnh này. Xã hội phong kiến đương thời tồn tại một tư tưởng bảo thu, lạc hậu đáng kinh sợ: phân biệt sang hèn rạch ròi; kẻ nghèo khó bị khinh miệt, coi rẻ như rơm rác: khi đã nghèo, nhân cách bị đánh đồng với tiền bạc có trong tay. Thị Kính xuất thân nghèo khó lại làm dâu nhà giàu nên nàng còn mang nỗi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu có, tàn ác khinh rẻ.
Trong chốc lát Thiện Sĩ không hiểu được thiện ý của vợ. Và nhất là Sùng bà thì mụ cố tình không hiểu. Mụ ta áp đặt cho Thị Kính là “mặt sứa gan lim” “mày định giết con bà à?”. Rồi mụ đay nghiến, mắng nhiếc Thị Kính thậm tệ. Điều quan trọng là cách mắng chửi của Sùng bà đối với Thị Kính không phải là của một bà mẹ chồng đối với con dâu của mình mà đó là những lời lẽ của một kẻ tàn nhẫn và độc ác, hợm hĩnh, tự coi mình là tầng lớp trên, coi thường những người khác, nhất là những người lao động. Hãy nghe cách bà ta tự xưng: "giống nhà bà đây giống phượng giống công" để so sánh với cách bà ta gọi Thị Kính: “tuồng bay mèo mả gà đồng”. Rõ ràng bà là đang “bới” ra nguồn gốc gia đình của hai bên chứ không hề quan tâm đến mối quan hệ mà cuộc hôn nhân của con bà với Thi Kính ràng buộc. Không chỉ hạ nhục Thị Kính bằng lời nói, bà ta còn hành hạ nàng bằng những hành động dã man. Bà ta dúi dầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính phải ngửa mặt lên. Rồi không cho nàng phân bua, thanh minh, mụ dúi tay đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống, nhất quyết trả Thị Kính về cho gia đình. Với người phụ nữ đi làm dâu trong xã hội xưa, bị nhà chồng trả về là một điều sỉ nhục không chỉ cho bản thân họ mà còn cho cả gia đình, nội tộc. Vậy thì khi hành động như vậy, Sùng bà còn cố ý hạ nhục cả gia đình, dòng họ của Thị Kính.
Phản ánh bi kịch lên đến tột cùng trong số phận của nhân vật Thị Kính, tác giả dân gian đã lên án những tư tưởng phong kiến bảo thủ, thối nát cướp mất quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của người dân lao động, đặc biệt là người phụ nữ. Bên cạnh đó, đoạn trích kịch cũng bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc đối với số phận những “dải lụa đào”, “những trái bần trôi”,... bơ vơ, tội nghiệp trong xã hội cũ. Đó là một đặc điểm quan trọng thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc trong văn bản.
Bình luận