Danh mục bài soạn

Từ các văn bản Cổng trường mở ra, Cuộc chia tay của những con búp bê trong Ngữ văn 7, tập một, hãy tâm sự về niềm vui, n...
Hãy phát biểu những suy nghĩ và tình cảm của em về hạnh phúc được sông giữa tình yêu của mọi người bài mẫu 1
Hãy phát biểu những suy nghĩ và tình cảm của em về niềm vui sống giữa thiên nhiên bài mẫu 1
Viết bài văn biểu cảm (có sử dụng yếu tố miêu tả, tự sự) theo một trong hai chủ đề sau: Một kỉ niệm tuổi thơ hoặc Tình b...
Bài văn mẫu lớp 7: Cảm nghĩ về mái trường thân yêu
Chứng minh bảo vệ rừng chính là bảo vệ cuộc sống của chúng ta
Hãy chứng minh rằng đời sống của chúng ta sẽ bị tổn hại rất lớn nếu mỗi người không có ý thức bảo vệ môi trường
Dân gian ta có câu tục ngữ: Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. Nhưng có bạn lại bảo: Gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn...
Hãy trình bày nổi bật lối sống vô cùng giản dị thanh bạch của Bác Hồ
Ít lâu nay, một số bạn trong lớp có phần lơ là là học tập. Em hãy viết 1 bài văn để thuyết phục bạn: “Nếu khi còn trẻ ta...
Kể cho bố mẹ nghe một chuyện cảm động mà em đã gặp ở trường

Kể cho bố mẹ nghe một chuyện buồn cười mà em đã gặp ở trường
Chứng minh rằng nói dối có hại cho bản thân
Bạn em chỉ ham thích trò chơi điện tử, truyền hình, ca nhạc… mà tỏ ra thờ ơ, không quan tâm đến thiên nhiên. Em hãy chứn...
Kể lại nội dung câu chuyện được ghi trong một bài thơ Lượm theo ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba
Đóng vai là người mẹ kể lại cuộc chia tay của hai anh em Thành và Thủy trong truyện Cuộc chia tay của những con búp bê
Em hãy tả khung cảnh quê em vào mùa xuân
Hãy viết bài văn biểu cảm về loài cây em yêu: Cây tre
Bài văn mẫu lớp 7 Cảm nghĩ về tình bạn
Hãy viết bài văn biểu cảm về cây phượng trường em
Bài văn mẫu cảm nghĩ về mái trường thân của em lớp 7
Bài văn biểu cảm về một loài hoa em thích lớp 7
Bài văn chứng minh: Cần phải chọn sách mà đọc
Tuổi trẻ mà không chịu khó học tập thì lớn lên không làm được việc gì có ích
Hãy chứng minh rằng đời sống của chúng ta sẽ bị tổn hại rất lớn nếu mỗi người không chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ giao...
Bài văn mẫu: Cảm nghĩ về nụ cười của mẹ em

 

Kể về một người có ảnh hưởng nhất đối với em
Bài văn mẫu lớp 7: Tả con đường từ nhà tới trường
Văn mẫu 7: Kể lại nội dung câu chuyện được ghi trong một bài thơ có tính chất tự sự (như "Lượm" hoặc "Đêm...
Văn mẫu 7: Miêu tả một cảnh đẹp mà em đã gặp trong mấy tháng nghỉ hè (có thể là phong cảnh nơi em nghỉ mát hoặc cánh đồn...
Văn mẫu 7: Kể về một buổi cắm trại mà em đã từng tham gia (hoặc được chứng kiến)
Bài văn mẫu lớp 7:Tả lại khung cảnh khu phố nơi mà em đang ở
Đề 1: Kể cho bố mẹ nghe một chuyện lí thú (hoặc cảm động, hoặc buồn cười,....) mà em đã gặp ở trường
Đề 2: Kể lại nội dung câu chuyện được ghi trong một bài thơ có tính chất tự sự (như Lượm hoặc đêm nay Bác không ngủ)...
Đề 3: Miêu tả một cảnh đẹp mà em đã gặp trong mấy tháng nghỉ hè (có thể) là phong cảnh nơi em nghỉ mát, hoặc cánh đồng h...
Đề 4: Miêu tả chân dung một người bạn của em
Tổng hợp bài viết số 1 văn 7 hay nhất với đầy đủ các đề
Văn mẫu 7 bài viết số 2: Loài cây em yêu (chọn bất cứ loại cây gì ở Làng quê Việt Nam: Tre, dừa, chuối, gạo, đa...không...
Văn mẫu lớp 7: Hãy kể về một người bạn mà em yêu mến nhất
Văn mẫu lớp 7: Em hãy tả về cây vải thiều quê hương em.
Văn mẫu lớp 7: Hãy kể về một kỉ niệm về một thầy, cô giáo mà em nhớ nhất
Văn mẫu lớp 7: Miêu tả một cảnh đẹp mà em đã gặp trong mấy tháng nghỉ hè (có thể là phong cảnh nơi em nghỉ mát hoặc cánh...
Văn mẫu lớp 7: Kể lại một kì niệm em nhớ mãi trong cuộc đời học trò vừa qua
Văn mẫu lớp 7: Miêu tả sân trường giờ ra chơi
Văn mẫu lớp 7: Em hãy tưởng tượng và kể lại chân dung của Lượm ( nhân vật trong bài thơ cùng tên của nhà thơ Tố Hữu)
Văn mẫu lớp 7: Viết thư cho một người bạn nước ngoài để giới thiệu về đất nước của mình
Văn mẫu lớp 7: Hãy miêu tả một loài cây em yêu
Văn mẫu lớp 7: Bằng trí tưởng tượng của mình, em hãy tả cảnh mục đồng thổi sáo khi dắt trâu ra đồng về nhà khi chiều xuố...
Văn mẫu lớp 7: Tả một loài cây

 

Văn mẫu lớp 7: Em hãy tả cây đa làng em
Văn mẫu lớp 7: Tả khung cảnh Hà Nội vào xuân
Văn mẫu lớp 7: Hãy miêu tả cảnh đẹp của rừng núi quê em
Văn mẫu lớp 7: Hãy miêu tả cảnh đẹp mà em đã gặp trong mấy tháng nghỉ hè( có thể là phong cảnh nơi em nghỉ mát hoặc cánh...
Văn mẫu lớp 7: Hãy kể về một người bạn thân yêu của em
Văn mẫu lớp 7: Kể chuyện về bà em
Văn mẫu lớp 7: Phát biểu cảm nghĩ về bài " Cổng trường mở ra" của Lý Lan
Văn mẫu lớp 7: Cảm nghĩ về dòng sông quê mẹ
Văn mẫu lớp 7: Cảm nghĩ về mùa hè
Văn mẫu lớp 7: Cảm nghĩ của em về sách vở em học hằng ngày
Văn mẫu lớp 7: Em hãy phát biểu cảm nghĩ về một người thân mà em yêu quý
Văn mẫu lớp 7: Một bài học sâu sắc và ý nghĩa mà cuộc sống đã tặng cho em
Văn mẫu lớp 7: Dựa vào văn bản": Sài Gòn tôi yêu" hãy viết một bài văn về mảnh đất em yêu quý
Văn mẫu lớp 7: Viết cảm nghĩ về khu vườn nhà em

 

Văn mẫu lớp 7: Mùa xuân vốn là nguồn cảm hứng bất tận của thi ca, nhạc họa. Hãy viết cảm nghĩ của em về mùa xuân.
Văn mẫu lớp 7: Phát biểu cảm nghĩ của em về quê hương đất nước qua hai tác phẩm Sài Gòn tôi yêu (Minh Hương) và Mùa xuân...
Văn mẫu lớp 7: Phát biểu cảm nghĩ của em về bài văn mẹ tôi của nhà văn Êt-môn-đô đờ A- min -xi
Văn mẫu lớp 7: Phát biểu cảm nghĩ của em về bài:" Cuộc chia tay của những con búp bê" của Khánh Hoài
Văn mẫu lớp 7: Cảm nghĩ về một bài văn mà em đã được học
Văn mẫu lớp 7: Phát biểu cảm nghĩ về một con vật nuôi
Văn mẫu lớp 7: Cảm xúc về mùa thu
Văn mẫu lớp 7: Cảm nghĩ về mái trường xưa của em
Văn mẫu lớp 7: Cảm nghĩ về truyện cổ ANĐECXEN
Văn mẫu lớp 7: Em hãy phát biểu cảm nghĩ tác phẩm: Một thứ quà của lúa non-Cốm
Văn mẫu lớp 7: Phát biểu cảm nghĩ của em về năm khổ thơ đầu của bài thơ Đêm nay Bác không ngủ
Văn mẫu lớp 7: Đọc lại văn bản Mẹ tôi của Ét-môn-đơ A-min-xi và hãy thay mặt En-ri-co hãy viết một bức thư cho bố, nói...
Văn mẫu lớp 7: Phát biểu cảm nghĩ của em về bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh
Văn mẫu lớp 7: Tục ngữ có câu:" Lời nói chẳng mất tiền mua/ Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Em hiểu lời khu...
Văn mẫu lớp 7: Tục ngữ có câu:" Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng". Em hãy giải thích câu nói trên và từ đó r...
Văn mẫu lớp 7: Trong một cuộc nói chuyện với học sinh, chủ tịch Hồ Chí Minh có nói:" Có tài mà không có đức là ngườ...
Văn mẫu lớp 7: Nhân dân có câu:" Có công mài sắt có ngày lên kim". Em hãy chứng minh câu tục ngữ trên
Văn mẫu lớp 7: Em hiểu thế nào về ý nghĩa câu tục ngữ:" Đói cho sạch, rách cho thơm"

 

Văn mẫu lớp 7: Em hãy bình luận ý nghĩa của câu tục ngữ:" Tốt gỗ hơn tốt nước sơn"
Văn mẫu lớp 7: Em hãy giải thích và giúp bạn em hiểu rõ ý nghĩa và mối quan hệ giữa hai câu tục ngữ:" Không thầy đố...
Văn mẫu lớp 7: Giải thích và chứng minh câu tục ngữ:" Thất bại là mẹ thành công"
Văn mẫu lớp 7: Em hãy giải thích và bình luận câu tục ngữ:" Đi một ngày đàng học một sàng khôn"
Văn mẫu lớp 7: Chứng minh nhân dân Việt Nam ta từ xưa đến nay luôn sống theo đạo lý " Uống nước nhớ nguồn",...
Văn mẫu lớp 7: Em hãy chứng minh rằng đời sống của chúng ta sẽ bị tổn hại rất lớn nếu như chúng ta không có ý thức bảo v...
Văn mẫu lớp 7: Em hãy tìm hiểu và chứng minh câu ca dao: " Một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại lên hòn núi...
Văn mẫu lớp 7: Em hiểu thế nào về câu tục ngữ:" Tiên học lễ, hậu học văn"
Văn mẫu lớp 7: Trong bài ca vỡ đất, nhà thơ Hoàng Trung Thông có viết: " Bàn tay ta làm nên tất cả/ Có sức người s...
Văn mẫu lớp 7: Dân gian ta có câu:" Lời chào cao hơn mân cỗ". Em hiểu câu nói đó như thế nào?
Văn mẫu lớp 7: Ca dao có câu: " Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước như nguồn chảy ra" Em hãy giải...
Văn mẫu lớp 7: Bình luận câu tục ngữ:" Có chí thì nên"

 

Văn mẫu lớp 7: Cảm nhận của em về một số bài ca dao đã học
Văn mẫu lớp 7: Nói về tinh thần vượt khó, nhân dân ta có câu:" Lửa thử vàng gian nan thử sức". Em hiểu câu nó...
Văn mẫu lớp 7: Cảm nghĩ của em về tình bà cháu trong bài thơ Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh
Văn mẫu lớp 7: Chứng minh rằng trong đoạn trích “Nỗi oan hại chồng" nhân vật Thị Kính không chỉ chịu khổ vì bị ngỡ...
Văn mẫu lớp 7: Một nhà văn có nói:" Sách là nguồn sáng bất diệt của trí tuệ con người". Em hãy giải thích nội...
Văn mẫu lớp 7: Thế nào là nghệ thuật tương phản? Nêu cách thể hiện thủ pháp nghệ thuật ấy trong truyện:" Sống chết...
Văn mẫu lớp 7: Cảm nhận khi đọc bài thơ Nam quốc sơn hà
Văn mẫu lớp 7: Cảm nhận của em khi đọc bài Phò giá về kinh( Tụng giá hoàn kinh sư) của Trần Quang Khải
Văn mẫu lớp 7: Phân tích bài thơ:" Qua đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan

 

Văn mẫu lớp 7: Phân tích bài thơ:" Đề đến Sầm Nghi Đống" của Hồ Xuân Hương
Văn mẫu lớp 7: Phân tích đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong hai bài thơ Qua đèo Ngang và Chiều hôm nhớ nhà của bà...
Văn mẫu lớp 7: Phân tích bài:" Tinh thần yêu nước của nhân dân ta" của Chủ Tịch Hồ Chí Minh
Văn mẫu lớp 7: Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến
Văn mẫu lớp 7: Phát biểu cảm nghĩ về bài Sài Gòn tôi yêu của tác giả Minh Hương
Văn mẫu lớp 7: Nguyên tiêu( Rằm tháng giêng) là một bài thơ xuân tuyệt tác của Hồ Chí Minh. Em hãy phân tích bài thơ này
Văn mẫu lớp 7: Cảm nhận khi đọc bài Cốm-một thứ quà của lúa non của Thạch Lam
Văn mẫu lớp 7: Phân tích bài Ý nghĩa văn chương của Hoài Thanh
Văn mẫu lớp 7: Cảm nhận của em khi đọc bài Xa ngắm thác núi Lư
Văn mẫu lớp 7: Cảm nhận của em về bài thơ Tĩnh dạ tứ của Lý Bạch
Văn mẫu lớp 7: Giới thiệu về chùa một cột
Văn mẫu lớp 7: Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong Bài thơ nhà tranh bị gió thu phá
Văn mẫu lớp 7: Tình yêu quê hương đất nước trong bài Cảm nghĩ trong đêm trăng thanh tĩnh
Văn mẫu lớp 7: Giới thiệu về Chùa Bút Tháp

Văn mẫu lớp 7: Chứng minh rằng trong đoạn trích “Nỗi oan hại chồng" nhân vật Thị Kính không chỉ chịu khổ vì bị ngỡ oan mà còn mang nỗi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu sang tàn ác khinh rẻ.

Chuyên mục: Văn mẫu lớp 7

Đề bài: Chứng minh rằng trong đoạn trích “Nỗi oan hại chồng" nhân vật Thị Kính không chỉ chịu khổ vì bị ngỡ oan mà còn mang nỗi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu sang tàn ác khinh rẻ.. Em hãy chứng minh câu tục ngữ trên. Theo đó, hocthoi gửi đến các bạn 3 dàn ý + bài văn mẫu để các bạn có thể tham khảo. Từ đó, giúp các bạn có những bài văn hay nhất cho riêng mình

[toc:ul]

Bài mẫu 1: Chứng minh rằng trong đoạn trích “Nổi oan hại chồng" nhân vật Thị Kính không chỉ chịu khổ vì bị ngỡ oan mà còn mang nỗi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu sang tàn ác khinh rẻ.

Dàn ý:

1. Mở bài: Từ lâu, nhân dân ta lưu truyền câu thành ngữ đã trở nên hết sức quen thuộc “Oan Thị Kính”. Đây là thành ngữ dùng để chỉ những nỗi oan ức đến cùng cực, nỗi oan không thể giãi bày.

Đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” kể về đoạn đời đầy bất hạnh của người phụ nữ lương thiện ấy.

2. Thân bài:

Trước hết, nỗi khổ đau của Thị Kính phải chịu đựng bắt nguồn từ việc bị ngờ oan: 

  • Dẫn chứng cm:
    • Chỉ vì  thấy chồng có “dị hình sắc dưới cằm mọc ngược, tiện có con dao sắc đang cầm trong tay, nàng định bụng sẽ xén chiếc râu quái ác ấy. Nhưng oái oăm thay, thấy nàng cầm con dao, bà mẹ chồng Sùng Bà - dồn dập đổ xuống đầu nàng những lời buộc tội và căn cứ là định giết chồng
    •  Nguyên nhân giết chồng là do nàng đã “trót say hoa đắm nguyệt”, “đã trên dâu dưới bộc hẹn hò”. Nỗi oan ấy chẳng hề bày tỏ cùng ai. 

Ngờ oan cho con dâu chỉ là cái cớ để bà mẹ chồng tàn ác kia khinh miệt, nhục mạ xuất thân nghèo hèn của nàng.

Xung đột kịch đã đẩy lên tới đỉnh điểm là lúc Thị Kính chạy lại cha đẻ sau cái dúi ngã tàn nhẫn của Sùng Ông, rồi hai thân phận nghèo hèn ấy ôm nhau than khóc cho nỗi đau đớn, nhục nhã của những thân phận nhỏ bé bị chà đạp bởi những kẻ giàu có tàn ác.

3. Kết bài:

  • Rõ ràng, quan hệ giữa Sùng Bà và Thị Kính không còn đơn giản là quan hệ mẹ chồng - nàng dâu mà nó đại diện cho mối quan hệ giàu - nghèo, sang - hèn
  • Những kẻ giàu có tàn ác luôn luôn tìm cách chà đạp, vùi dập những con người nghèo khổ trong xã hội. 

Bài viết

Từ lâu, nhân dân ta lưu truyền câu thành ngữ đã trở nên hết sức quen thuộc “Oan Thị Kính”. Đây là thành ngữ dùng đểchỉ những nỗi oan ức đến cùng cực, nỗi oan không thể giãi bày. Thế nhưng, nhân vật của câu thành ngữ - Thị Kính - không chỉ chịu khổ vì bị ngờ oan mà còn mang nỗi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu sang tàn ác khinh rẻ. Đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” kể về đoạn đời đầy bất hạnh của người phụ nữ lương thiện ấy.

Trước hết, nỗi khổ đau của Thị Kính phải chịu đựng bắt nguồn từ việc bị ngờ oan. Khi chồng “dùi mài kinh sử” đã đến hồi mệt mỏi cần được nghỉ ngơi, người vợ hiền - Thị Kính đã ân cần ngồi quạt cho chồng. Chăm sóc chồng không chỉ là việc làm của người vợ đảm đang mà đối với họ còn là một hạnh phúc. Thị Kính cũng thế. Song khi nàng muốn được chăm sóc cho chồng nhất, muốn được hưởng niềm hạnh phúc của người vợ thì lại là lúc nàng gặp phải sự đùa cợt của số phận. Nhìn thấy Thiện Sĩ có “dị hình sắc dưới cằm mọc ngược” và “dạ thương chồng” vì “trước đẹp mặt chàng sau đẹp mặt ta”, tiện có con dao sắc đang cầm trong tay, nàng định bụng sẽ xén chiếc râu quái ác ấy. Nhưng oái oăm thay, Thiện Sĩ “chợt giật mình tỉnh dậy” tình ngay mà lí gian, con dao trong tay nàng không còn là con dao làm đẹp cho chồng mà trở thành bằng chứng của một âm mưu tàn ác. Thực hư ra sao chẳng cần xét hỏi, bà mẹ chồng Sùng Bà - dồn dập đổ xuống đầu nàng những lời buộc tội và căn cứ:

“Cái mặt con sứa gan lim này! Mày định giết con bà à”

Yêu và thương chồng hết mực, một mảy may ý định giết chồng nàng cũng không hề nghĩ tới. Vậy việc làm chẳng hề có ấy qua lời của mụ thì “rõ rành rành mười mắt đều trông”. Đau đớn quá, oan ức quá! Nỗi oan chẳng dừng lại ở đó. Người vợ thủy chung tình nghĩa mang thêm tội ăn ở hai lòng với sự suy diễn trắng trợn từ Sùng Bà. Nguyên nhân giết chồng là do nàng đã “trót say hoa đắm nguyệt”, “đã trên dâu dưới bộc hẹn hò”. Nỗi oan ấy chẳng hề bày tỏ cùng ai. Người chồng nhu nhược đớn hèn chỉ biết làm ngơ trước tình cảm của người vợ “nghĩa nặng tình sâu”, “trăm năm kết tóc”. Ba lần tiếng kêu thảm thiết Thị Kính hướng về mẹ chồng thì bị đáp trả bằng những lời buộc tội thêm một chồng chất, bằng cú dúi tay ngã khụy nhẫn tâm.

Thế nhưng, chúng ta đều biết rằng tội của nàng không phải vi phạm vào “tam tòng tứ đức” mà là tội nghèo. Ngờ oan cho con dâu chỉ là cái cớ để bà mẹ chồng tàn ác kia khinh miệt, nhục mạ xuất thân nghèo hèn của nàng, lấy cho con trai người vợ “không môn đăng hộ đối” chắc hẳn Sùng Bá âm ỉ mang trong lòng sự căm ghét với con dâu. Chỉ có những “nơi công hầu” mới xứng đáng sánh đôi cùng con trai bà, bởi “nhà bà đây cao môn lệnh tộc” nhà bà đây “giống phượng giống công”. Khác với vẻ khoe khoang vênh váo khi nói về dòng giống của mình, Sùng Bá không tiếc lời khinh bỉ, coi thường khi nhắc tới gia đình Thị Kính. Cái loại “mèo mả gà đồng”, cái loại “con nhà cua ốc” mà lại là con dâu bà thì thật là điều ô nhục. Suốt đời, những thân phận nghèo hèn chỉ thuộc địa vị thấp kém, mãi mãi không thể ngẩng đầu được:

Trứng rồng lại nở ra rồng

Liu điu lại nở ra dòng liu điu.

Người xưa thật tài tình với những hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, với việc đặt vào cái miệng nanh nọc của Sùng Bà một thứ ngôn ngữ phong phú đa dạng đến thế. Đáng thương thay cho Thị Kính, bị hành hạ về mặt tinh thần chưa đủ, nàng còn phải chịu đựng những hành vi tàn ác và rất thô bạo từ người mẹ chồng quyền quý, giàu sang. Hai lần, dưới bàn tay thô bạo của Sùng Bà, Thị Kính đã ngã xuống. Cả hai lần đều là chỉ Thị Kính mở miệng kêu oan. Khi đã rũ rượi vì khóc than đau đớn, nàng còn phải ngửa mặt lên để hứng những lời lẽ cay độc. Sùng Bà có lẽ đã giận mình không thể “chém bổ băm vàm xả xích mặt” nàng ra.

Xung đột kịch đã đẩy lên tới đỉnh điểm là lúc Thị Kính chạy lại cha đẻ sau cái dúi ngã tàn nhẫn của Sùng Ông, rồi hai thân phận nghèo hèn ấy ôm nhau than khóc. Còn nỗi đau, nỗi nhục nào hơn khi một con người bất lực trước việc cha đẻ bị khinh bỉ, hành hạ. Người cha tội nghiệp ấy cũng vì nghèo hèn mà trở thành nạn nhân của trò đùa tai quái do vợ chồng Sùng Bà bày ra: gọi ông sang ăn cữ cháu nhưng thực chất là trả lại cô con gái “lăng loàn”. Họ khóc than cho nỗi đau đớn, nhục nhã của những thân phận nhỏ bé bị chà đạp bởi những kẻ giàu có tàn ác.

Rõ ràng, quan hệ giữa Sùng Bà và Thị Kính không còn đơn giản là quan hệ mẹ chồng - nàng dâu mà nó đại diện cho mối quan hệ giàu - nghèo, sang - hèn và trở thành quan hệ không thể điều hòa và giải quyết được, đó là quan hệ giai cấp. Những kẻ giàu có tàn ác luôn luôn tìm cách chà đạp, vùi dập những con người nghèo khổ trong xã hội. Đáng thương thay, người phụ nữ yếu đuối lại là nạn nhân của thói đời đen bạc, của sự bất công vô lí ấy.

Bài mẫu 2: Chứng minh rằng trong đoạn trích “Nổi oan hại chồng" nhân vật Thị Kính không chỉ chịu khổ vì bị ngỡ oan mà còn mang nỗi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu sang tàn ác khinh rẻ.

Dàn ý:

1. Mở bài:

  • Quan Âm Thị Kính là vở chèo nổi tiếng trong kho tàng văn học dân tộc. 
  • Qua đoạn trích Nỗi oan hại chồng đã thể hiện qua nhân vật Thị Kính với nỗi oan ức không gì thanh minh được và đặc biệt là nỗi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu có, tàn ác khinh rẻ.

2. Thân bài:

Nội dung tác phẩm:

  • Đoạn trích bắt đầu bằng cảnh Thiện Sĩ ngồi đọc sách rồi thiu thiu ngủ. 
  • Thị Kính định lấy dao khâu xén sợi râu mọc ngược cho chồng thì ngờ đâu Thiện Sĩ giật mình tỉnh dậy hô hoán lên. Sùng ông, Sùng bà vốn không ưa Thị Kính, thấy thế bèn vu ngay cho Thị Kính tội có ý giết chồng
  • Sùng ông gọi Mãng ông (bố Thị Kính) sang. Sau khi làm cho hai bố con phải nhục nhã, khổ sở, hai vợ chồng bỏ vào nhà trong để mặc bố con Thị Kính ôm nhau than khóc rồi đưa nhau về.

Số phận, nhận vật:

  • Nổi bật trong đoạn này là hình ảnh Thị Kính, người phụ nữ hết lòng thương yêu chồng.
  • Hành động cầm dao cắt râu mọc ngược giúp chồng chính là, thể hiện những tình cảm nồng nàn và chân thực của người phụ nữ yêu chồng.
  • Thị Kính bị khinh khi, lăng nhục với những lời lẽ của một kẻ tàn nhẫn và độc ác, hợm hĩnh, tự coi mình là tầng lớp trên, coi thường những người khác, nhất là những người lao động của Sùng Bà
  • Bao lần kêu oan nhưng không thấy ngay đến cả cha ruột của mình cũng bất lực không thể làm gì để giúp đỡ con gái.
  • Hai cha con bị đuổi về một cách nhục nhã

=>Nhân vật Thị Kính đã bị đẩy khỏi cuộc sống đời thường một cách bất ngờ, đau đớn đầy tủi nhục.

 

3. Kết bài: Đoạn trích còn thể hiện những xung đột giai cấp gay gắt trong xã hội phong kiến xưa và đó là tiền đề để những người dân lao động nghèo khổ bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp vốn có của mình: chất phác, thật thà, nhân hậu, vị tha...

Bài viết

Quan Âm Thị Kính là vở chèo nổi tiếng trong kho tàng văn học dân tộc. Tác phẩm có một sức sống bền bỉ, dài lâu theo suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Chính những giá trị hiện thực và nhân đạo đã làm nên sức sống trường tồn cho tác phẩm. Chỉ qua đoạn trích Nỗi oan hại chồng, ta đã cảm nhận được những giá trị to lớn ấy. Điều đó được thể hiện qua nhân vật Thị Kính với nỗi oan ức không gì thanh minh được và đặc biệt là nỗi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu có, tàn ác khinh rẻ.

Đoạn trích bắt đầu bằng cảnh Thiện Sĩ ngồi đọc sách rồi thiu thiu ngủ. Thị Kính ngồi khâu bên cạnh, thấy một sợi râu của chồng mọc ngược, cho là không tốt, định lấy dao khâu xén đi. Ngờ đâu Thiện Sĩ giật mình tỉnh dậy hô hoán lên. Sùng ông, Sùng bà vốn không ưa Thị Kính, thấy thế bèn vu ngay cho Thị Kính tội có ý giết chồng. Rồi mặc cho Thị Kính thanh minh, van xin, Sùng ông, Sùng bà đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Sùng ông gọi Mãng ông (bố Thị Kính) sang. Sau khi làm cho hai bố con phải nhục nhã, khổ sở, hai vợ chồng bỏ vào nhà trong để mặc bố con Thị Kính ôm nhau than khóc rồi đưa nhau về.

Nổi bật trong đoạn này là hình ảnh Thị Kính, người phụ nữ hết lòng thương yêu chồng. Khi chồng ngủ, Thị Kính ngồi quạt cho chồng. Cũng vì yêu chồng, ngắm chồng khi chồng ngủ, Thị Kính mới phát hiện ra một chiếc râu mọc ngược. Với suy nghĩ rất bình thường, giản dị “Trước đẹp mặt chồng, sau đẹp mặt ta”, Thị Kính đã toan lấy dao khâu xén chiếc râu đó đi. Những suy nghĩ và hành động của Thị Kính rất tự nhiên, thể hiện những tình cảm nồng nàn và chân thực của người phụ nữ yêu chồng.

Nhưng Thiện Sĩ đã không hiểu được điều đó. Và nhất là Sùng bà thì càng không hiểu. Trong hành động và ngôn ngữ, Sùng bà tỏ ra là một kẻ tàn nhẫn, độc ác, không những thế lại coi thường những người lao động nghèo khổ. Bà ta dúi đầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính phải ngửa mặt lên (một kiểu hạ nhục người khác). Rồi không cho Thị Kính được phân bua, thanh minh, mụ dúi tay đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống, nhất quyết trả Thị Kính về cho gia đình. Không chỉ vậy, Sùng bà còn đay nghiến mắng nhiếc Thị Kính thậm tệ. Điều quan trọng nhất là cách mắng chửi của Sùng bà đối với Thị Kính không phải là lời mắng của mẹ đối với con, cũng không phải là của một bà mẹ chồng đối với con dâu của mình. Mà đó là những lời lẽ của một kẻ tàn nhẫn và độc ác, hợm hĩnh, tự coi mình là tầng lớp trên, coi thường những người khác, nhất là những người lao động. Sùng bà tức giận, chửi mắng Thị Kính thậm tệ không hẳn vì Thị Kính định hại con bà mà cơ bản là vì sự chênh lệch đẳng cấp giữa hai gia đình. Thị Kính là con nhà nghèo mà lại dám bước vào, hơn thế nữa lại là nàng dâu, trở thành người trong gia đình mụ.

Trước nỗi oan khuất, Thị Kính không biết làm gì khác, chỉ một mực kêu oan. Thị Kính đã kêu oan tới năm lần. Bốn lần trước là hướng đến mẹ chồng và chồng (“Oan con lắm mẹ ơi!”, “Oan thiếp lắm chàng ơi”!). Cả bốn lần, lời kêu oan của Thị Kính chỉ như đổ thêm dầu vào lửa, bởi Thiện Sĩ chỉ là một kẻ bạc nhược, đớn hèn, còn Sùng bà thì hiển nhiên không muốn chấp nhận Thị Kính là dâu con trong nhà. Chỉ đến lần thứ năm, lời kêu oan của Thị Kính mới nhận được sự cảm thông, nhưng đó lại chỉ là của Mãng ông: “Oan cho con lắm à?”. Một sự cảm thông đau khổ và bất lực. Mãng ông biết con gái bị oan nhưng biết phận mình chỉ là một người nông dân nghèo, không có vị thế trong xã hội - lại là xã hội phong kiến - ông không thể làm gì để giúp đỡ con gái.

Sùng ông, Sùng bà thật là những kẻ độc ác đến tàn nhẫn. Đuổi Thị Kính ra khỏi nhà chưa thỏa, trước khi đuổi, chúng còn bày ra một màn kịch độc ác nhằm làm cho cha con Thị Kính phải nhục nhã ê chề. Sùng ông gọi Mãng ông sang để nhận con gái về, lại nói: Ông Mãng ơi, ông sang mà ăn cữ cháu! Mãng ông tưởng thật, đang nói giọng hoan hỉ thì bị giội ngay gáo nước lạnh: “Đây này! Đang nửa đêm nó cầm đao giết chồng đây này!”. Không những thế, Sùng ông còn thẳng thừng cự tuyệt quan hệ thông gia với Mãng ông bằng cách dúi ngã Mãng ông rồi bỏ vào nhà.

Xung đột kịch đã được đẩy đến mức cao nhất: Thị Kính không những bị đẩy vào cảnh tan vỡ hạnh phúc vợ chồng, bị chửi mắng, hành hạ mà còn phải chứng kiến cảnh người cha già yếu bị chính bố chồng làm cho nhục nhã, khổ sở. Hình ảnh hai cha con ôm nhau khóc là hình ảnh của những người chịu oan, đau khổ mà hoàn toàn bất lực. Đó là bi kịch điển hình của những người dân nghèo, nhất là những người phụ nữ nông thôn trong xã hội cũ. Khi Mãng ông bảo Thị Kính về theo mình, Thị Kính đi theo cha mấy bước, rồi dừng lại, quay nhìn vào từ cái kỉ đến sách, thúng khâu, rồi cầm lấy chiếc áo đang khâu dở, bóp chặt trong tay. Cử chỉ và lời hát của Thị Kính thể hiện rất nhiều ý nghĩa:

Thương ôi! Bấy lâu sắt cầm tịnh hảo

Bỗng ai làm chăn gối lẻ loi...

Những cặp từ ngữ “bấy lâu - bỗng; sắt cầm- chăn gối lẻ loi”...với sắc thái ý nghĩa đối lập diễn tả hai trạng thái trái ngược nhau được chuyển đổi rất đột ngột. Từ cảnh “sắt cầm tịnh hảo” (ý nói tình vợ chồng hòa hợp đầm ấm) đến cảnh “chăn gối lẻ loi” (vợ chồng chia lìa) chỉ là trong phút chốc. Bên này là hạnh phúc, bên kia là cảnh chia lìa. Nhân vật Thị Kính đã bị đẩy khỏi cuộc sống đời thường một cách bất ngờ, đau đớn đầy tủi nhục.

Có thể nói, xây dựng đoạn trích Nỗi oan hại chồng, tác giả dân gian đã thể hiện niềm đồng cảm sâu sắc với nhân vật Thị Kính nói riêng và tầng lớp dân lao động nói chung. Đoạn trích còn thể hiện những xung đột giai cấp gay gắt trong xã hội phong kiến xưa và đó là tiền đề để những người dân lao động nghèo khổ bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp vốn có của mình: chất phác, thật thà, nhân hậu, vị tha...

Bài mẫu 3: Chứng minh rằng trong đoạn trích “Nổi oan hại chồng" nhân vật Thị Kính không chỉ chịu khổ vì bị ngỡ oan mà còn mang nỗi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu sang tàn ác khinh rẻ.

Dàn ý:

1. Mở bài: Nhân vật Thị Kính trong đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” (trích vở chèo "Quan Âm Thị Kính") là một trong số đó. Nàng không chỉ chịu khổ vì bị oan mà còn mang nồi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu có, tàn ác khinh rẻ.

2. Thân bài:

Diễn biến câu chuyện:

  • Thiện Sĩ ngồi đọc sách rồi thiu thiu ngủ. 
  • Thị Kính định lấy dao khâu xén sợi râu mọc ngược cho chồng thì ngờ đâu Thiện Sĩ giật mình tỉnh dậy hô hoán lên. Sùng ông, Sùng bà vốn không ưa Thị Kính, thấy thế bèn vu ngay cho Thị Kính tội có ý giết chồng
  • Sùng ông gọi Mãng ông (bố Thị Kính) sang. Sau khi làm cho hai bố con phải nhục nhã, khổ sở, hai vợ chồng bỏ vào nhà trong để mặc bố con Thị Kính ôm nhau than khóc rồi đưa nhau về.

=> Bi kịch cuộc đời của một người phụ nữ:

  • Bị khinh khi lăng mạ nhục nhã
  • Kêu oan nhưng không ai tin
  • Bị mẹ chồng coi khinh vì xuất thân gia cảnh, đổ cho là hai lòng, cố ý mưu sát chồng
  • Trả Thị Kính về cho bố mẹ nàng bằng một cách nhục nhã nhất

3. Kết bài: Phản ánh bi kịch lên đến tột cùng trong số phận của nhân vật Thị Kính, tác giả dân gian đã lên án những tư tưởng phong kiến bảo thủ, thối nát cướp mất quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của người dân lao động, đặc biệt là người phụ nữ.

Bài viết

Dòng văn học dân gian Việt Nam giàu giá trị nhân đạo luôn quan tâm đến việc bênh vực cho quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ. Để truyền đạt tư tưởng ấy, nhân dân đã xây dựng những hình tượng người phụ nữ đẹp đẽ, vẹn toàn bị áp bức chà đạp nặng nề. Nhân vật Thị Kính trong đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” (trích vở chèo "Quan Âm Thị Kính") là một trong số đó. Nàng không chỉ chịu khổ vì bị oan mà còn mang nồi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu có, tàn ác khinh rẻ.

Thị Kính sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo nhưng lại về làm dâu một gia đình địa chủ, nhà Thiện Sĩ. Trong đêm thanh vắng, nàng ngồi may vá để thức cùng chồng giúp người đọc sách. Khi Thiện Sĩ ngủ quên, nàng âu yếm nhìn chồng rồi phát hiện ra cái râu mọc ngược. Hành động cầm dao cắt cái râu ấy cho chồng hoàn toàn xuất phát từ thiện ý giúp chồng đẹp hơn. Nhưng bất hạnh cho nàng, Thiện Sĩ bất ngờ tỉnh dậy hiểu nhầm hành động ấy rồi hô hoán cha mẹ. Sùng bà, Sùng ông coi việc làm của Thị Kính là mưu sát chồng.
 
Trước tình hình ấy, Thị Kính chỉ còn biết một mực kêu oan. Nàng kêu oan đến năm lần, trong đó bốn lần đầu hướng đến mẹ chồng và chồng:

"Mẹ ơi, oan cho con lắm mẹ ơi!",

“Oan cho con lắm mẹ ơi!”,

“Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi!,

“Oan thiếp lắm chàng ơi!”.

Nhưng cả bốn lần, lời kêu oan của Thị Kính chỉ như đổ thêm dầu vào lửa. Bởi Sùng bà trước sau là một kẻ độc ác, tàn nhẫn không chấp nhận vị trí của Thị Kính trong nhà mụ. Còn Thiện Sĩ chỉ là một kẻ ngu muội, bạc nhược, đớn hèn. Chỉ đến lần thứ năm, lời kêu oan của Thị Kính mới nhận được sự cảm thông, đó là của Mãng ông, cha nàng: "Oan cho con lắm à?" nhưng cay đắng thay: “Dù oan dù nhẫn chẳng oan. Xa xôi cha biết nỗi con nhường nào?”. Đó lại là một sự cảm thông đau khổ và bất lực. Mãng ông biết con gái bị oan nhưng chỉ là một người nông dân nghèo, không có vị thế trong xã hội, ông không thể làm gì để giúp đỡ con gái. Người phụ nữ ấy gặp phải cái án hàm oan tình ngay lí gian không sao tự minh oan chiếu tuyết được. Từ đó, nàng rơi vào bi kịch với cái án oan nghiệt: giết chồng.

Nhưng đó chưa phải bi kịch lớn nhất của người phụ nữ bất hạnh này. Xã hội phong kiến đương thời tồn tại một tư tưởng bảo thu, lạc hậu đáng kinh sợ: phân biệt sang hèn rạch ròi; kẻ nghèo khó bị khinh miệt, coi rẻ như rơm rác: khi đã nghèo, nhân cách bị đánh đồng với tiền bạc có trong tay. Thị Kính xuất thân nghèo khó lại làm dâu nhà giàu nên nàng còn mang nỗi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu có, tàn ác khinh rẻ.
 
Trong chốc lát Thiện Sĩ không hiểu được thiện ý của vợ. Và nhất là Sùng bà thì mụ cố tình không hiểu. Mụ ta áp đặt cho Thị Kính là “mặt sứa gan lim” “mày định giết con bà à?”. Rồi mụ đay nghiến, mắng nhiếc Thị Kính thậm tệ. Điều quan trọng là cách mắng chửi của Sùng bà đối với Thị Kính không phải là của một bà mẹ chồng đối với con dâu của mình mà đó là những lời lẽ của một kẻ tàn nhẫn và độc ác, hợm hĩnh, tự coi mình là tầng lớp trên, coi thường những người khác, nhất là những người lao động. Hãy nghe cách bà ta tự xưng: "giống nhà bà đây giống phượng giống công" để so sánh với cách bà ta gọi Thị Kính: “tuồng bay mèo mả gà đồng”. Rõ ràng bà là đang “bới” ra nguồn gốc gia đình của hai bên chứ không hề quan tâm đến mối quan hệ mà cuộc hôn nhân của con bà với Thi Kính ràng buộc. Không chỉ hạ nhục Thị Kính bằng lời nói, bà ta còn hành hạ nàng bằng những hành động dã man. Bà ta dúi dầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính phải ngửa mặt lên. Rồi không cho nàng phân bua, thanh minh, mụ dúi tay đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống, nhất quyết trả Thị Kính về cho gia đình. Với người phụ nữ đi làm dâu trong xã hội xưa, bị nhà chồng trả về là một điều sỉ nhục không chỉ cho bản thân họ mà còn cho cả gia đình, nội tộc. Vậy thì khi hành động như vậy, Sùng bà còn cố ý hạ nhục cả gia đình, dòng họ của Thị Kính.
 
Phản ánh bi kịch lên đến tột cùng trong số phận của nhân vật Thị Kính, tác giả dân gian đã lên án những tư tưởng phong kiến bảo thủ, thối nát cướp mất quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của người dân lao động, đặc biệt là người phụ nữ. Bên cạnh đó, đoạn trích kịch cũng bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc đối với số phận những “dải lụa đào”, “những trái bần trôi”,... bơ vơ, tội nghiệp trong xã hội cũ. Đó là một đặc điểm quan trọng thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc trong văn bản.

Nỗii oan hại chồng
Phần trên, hocthoi.net đã soạn đầy đủ lý thuyết và bài tập của bài học: Văn mẫu lớp 7: Chứng minh rằng trong đoạn trích “Nỗi oan hại chồng" nhân vật Thị Kính không chỉ chịu khổ vì bị ngỡ oan mà còn mang nỗi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu sang tàn ác khinh rẻ. . Bài học nằm trong chuyên mục: Văn mẫu lớp 7. Phần trình bày do hanoi tổng hợp và thực hiện giải bài. Nếu có chỗ nào chưa rõ, có phần nào muốn hiểu rộng thêm, bạn đọc vui lòng comment bên dưới. Ban biên tập sẽ giải đáp giúp các bạn trong thời gian sớm nhất.

Bài soạn các môn khác

Bình luận