Danh mục bài soạn

 
 
 
 
 
 
 
 

Văn mẫu 12 bài viết số 3 đề 1b: Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền tây Bắc Bộ và những người đồng đội trong đoạn thơ sau:...

Chuyên mục: Văn mẫu 12

Bài viết tập làm văn số 3 - ngữ văn lớp 12 đề 1: Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền tây Bắc Bộ và những người đồng đội trong đoạn thơ sau: " Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi....Mai Châu mùa em thơm nếp xôi". Sau đây, tech12h gửi đến cho bạn đọc những bài văn mẫu hay nhất, mời các bạn cùng tham khảo.

[toc:ul]

Bài mẫu 1: Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền tây Bắc Bộ và những người đồng đội...

Bài làm

Ai đã từng là người lính, ai đã từng đi qua một thời trận mạc trong lòng thường lưu giữ những kỉ niệm khó quên. Kỉ niệm ấy thao thức và sống dậy mỗi khi nhắc nhớ. Quang Dũng cũng vậy. Những năm tháng gắn bó với binh đoàn Tây Tiến anh hùng của người lính - nhà thơ này đã thôi thúc ông viết Tây Tiến - một bài thơ với những vần thơ đậm chất anh hùng ca bay lên từ hiện thực khốc liệt. Đoạn đầu bài thơ chính là đoạn ghi lại những kỉ niệm những kỉ niệm đầy ắp và nỗi nhớ của nhà thơ về những ngày tháng gắn bó cùng binh đoàn:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!...

.......

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Hai câu thơ mở đầu đã tạo ngay ấn tượng về nỗi nhớ:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

Thì ra đã có một khoảng lùi xa thời gian để thành ám ảnh, đê thành nỗi nhớ và tiếc nữa. Những tiếng "xa rồi Tây Tiến ơi" thốt lên từ trong lòng nhà thơ như một niềm nuối tiếc.Tiếng lòng đó cất lên sao mà tha thiết đến thế, đồng thời như có tiếng vọng đáp lại vào vách núi, ngân nga không dứt trong không gian bởi Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi.". Những hình ảnh thiên nhiên như đột ngột hiện lên trong không gian. Đó là con sông Mã kì vĩ và kiêu hãnh chảy từ thượng Lào về đất Việt, đó là rừng, là núi điệp trùng, những nơi đã in dấu chân của binh đoàn Tây Tiến một thời trận mạc, thế mà giờ đây đã xa rồi thì làm sao tránh khỏi nỗi  nhớ dâng lên trong lòng người chiến sĩ Tây Tiến năm xưa. Nỗi nhớ ấy có địa chỉ, địa danh như đã bắt rễ trong lòng người, nỗi nhớ ấy lại trong một trạng thái thật chơi vơi, mơ hồ như một thoáng buồn xa xôi... Có lẽ nhà thơ đã đạt được cái tài cái tình ấy trong câu thơ "Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi!".

Từ hai câu thơ khơi nguồn ấy, mạch chảy dòng tâm sự hoài niệm của nhà thơ mở ra lan toả như một chuỗi kỉ niệm giờ đây thức dậy, lay động và xôn xao trong lòng. Và đây, hình ảnh đoàn quân mỏi giữa Sài Khao sương lấp – rất ấn tượng. Sự chân thực sinh động của hình ảnh thơ khiến ta như hình dung thấy tư thế, dáng vẻ của đoàn quân trong gian lao, cơ cực của những ngày phải đương đầu với trận mạc, đối đầu với thiếu thốn, khó khăn. Chân thực song cũng rất lãng mạn khi hình ảnh đoàn quân mỏi lại được miêu tả trong một khung cảnh đẹp huyền ảo của thiên nhiên. Những tiếng sương lấp, đêm hơi... khiến cho toàn bộ cảnh thực chợt nhoà đi, gây được ấn tượng nhiều chiều trong tâm trí người đọc. Cũng với hình ảnh đoàn quân cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhà thơ Tố Hữu lại mở ra một trường liên tưởng khác:

Những đường Việt Bắc của ta,

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay

Thiên nhiên như cùng hát lên, cùng âm điệu với khúc quân hành của người lính ra trận.

Còn với Quang Dũng, bối cảnh thiên nhiên hiện ra trong kí ức và tâm trạng là những hình ảnh sóng đôi của sự trái ngược:

          Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,

    Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.

           Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Bước hành quân gian lao của người lính vệ quốc mở ra trong không gian nhiều chiều. Ta như nghe thấy bước chân và hơi thở trên đường trường chinh gian lao của người lính qua câu thơ đầy những vần trắc: "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thắm". Ta cũng thấy hiển hiện một lộ trình đầy gian lao, đầy bất ngờ, khi Quang Dũng viết: Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống. Đặc biệt hơn nữa, hình ảnh "Heo hút cồn mây, súng ngửi trời“ thì câu thơ không phải chỉ diễn tả bước gian lao trên đường hành quân đánh giặc mà ta còn thấy cả chất của lính, tính của lính qua sự liên tường bất ngờ mà thú vị: súng ngửi trời.

Biết bao nhiêu gian lao thử thách, vừa như muốn quật ngã người lính cách mạng, lại vừa như kích thích họ đi tới, dẫn tới của sự chinh phục. Cảnh rừng núi hiểm trở với dốc lên khúc khuỷu, với hun hút cồn mây, với độ cao thấp đến choáng ngợp của "ngàn thước lên cao ngàn thước xuống", thế mà hình ảnh của sự sống vẫn chợt hiện ra như tạo nên thế cân bằng: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi'. Bên cái hiểm trờ dữ dội của thiên nhiên là sự sống thanh bình của con người khiến cho giọng điệu và tâm tình trong thơ Quang Dũng chợt như mềm lại, tạo nên sự linh hoạt đã thành rất đỗi tài hoa trong bút pháp thể hiện:

        Chiều chiều oai linh thác gầm thét,

           Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,

   Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Với những kỉ niệm về binh đoàn Tây Tiến rất khó mờ phai trong tâm trí, lại thêm bút pháp hoài niệm rất đỗi tài hoa, qua hàng loạt những hình ảnh trái ngược mà hài hoà bổ sung cho nhau, Quang Dũng đã làm sống dậy hình ảnh người lính Tây Tiến, rừng núi Tây Tiến trong nỗi nhớ thật chơi vơi về Tây Tiến.

Những chuỗi kỉ niệm về thiên nhiên và con người đó như những thước phim vừa chân thực sinh động vừa rất huyền ảo, tình cảm và tài hoa đã góp phân tạo nên thành công cả về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.

Có người nhận định rằng với bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã dựng nên bức tượng đài bằng thơ về hình tượng ngựời lính đánh Pháp trong cuộc kháng chiến gian lao mà dũng cảm và cũng đầy chất thơ của nhân dân ta.

Đọc đoạn thơ, ta hiểu thêm về người lính Tây Tiến, hiểu thêm những điều ẩn phía sau của “đoàn binh không mọc tóc" và hiểu hơn về nguồn cội của sức mạnh mà người lính đem vào trận chiến. Yêu quý, khâm phục, tự hào là những dư vang tha thiết trong lòng người đọc khi biết về binh đoàn Tây Tiến qua những vần thơ của Quang Dũng.

Bài mẫu 2: Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền tây Bắc Bộ và những người đồng đội...

Bài làm

Trong thơ ca kháng chiến chống Pháp, có những bài thơ hay viết về người lính như Đồng chí của Chính Hữu, Hoan hô chiến sĩ Điên Biên của Tố Hữu, Nhớ của Nguyên Hồng và đặc biệt là bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Đây là một trong những bài thơ hay nhất của Quang Dũng được viết vào năm 1948 khi ông phảu rời xa đơn vị cu x và nhớ về những kỷ niệm gắn bó một thời với Tây Bắc, nhớ về những người đồng đội một thời chinh chiến Quang Dũng đã viết nên bài thơ Tây Tiến. Và khổ thơ nói lên hết nỗi lòng của tác giả chính là :

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Đoạn thơ mở đầu bằng một nỗi nhớ. Nỗi nhớ chất chứa trong long nhà thơ đã cất loeen thanh lời: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!”. Câu thơ vang lên như một lời bộc bạch, lại như lời gọi, tronmg đó chứa đầy cả sự nhớ nhung và tiếc nuối. Câu thơ bảy chữ có bốn chữ là tên riêng , và đó chũng là nơi gửi chốn về của nỗi nhớ: Vùng đất miền Tây mà sông Mã làm đại diện và đoàn quân Tây Tiến. Nhớ về Tây Tiến trước hết là nhớ về sông Mã con sông đã chứng kiến bao nhiều vui buồn kỷ niệm của người lính. Ba chữ “Tây Tiến ơi” cất lên nhữ một triêng gọi khẽ lay và tầm hồn người đọc.

Nỗi nhớ đưa nhà thơ vào tâm trạng thái tậ đặc biệt, đó là nỗi “nhớ chơi vơi” và khiến cho kí ức hiện lên thành hình, còn các hình ảnh lại trở nên sống động, lung linh trong nỗi nhớ : “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.

“Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ không định hình, nỗi nhớ trải dài và rộng từ cảnh vật đến con người, từ sông Mã đến núi rừng Tây Bắc và đoàn bình Tây Tiến. Vì gắn bó sinh tử nên nay xa rồi mới có nỗi nhơ “chơi vơi”. Nỗi nhớ như da diết, triền miên, nỗi nhớ như làm hồn người lơ lửng, bồng bềnh trong không gian và thời gian.

Ở những câu thơ tiếp theo, hình ảnh đoàn quân Tây Tiến như mờ ảo, ẩn hiện trong sương khó, nơi những địa danh xa lại gợi sự hấp dẫn của xứ lạ phương xa lại nhuốm vẻ đẹp huyền ảo. “ Sài Khao sương lấp đoàn quân Mỏi. Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.

Những địa danh xa lạ như Sai Khao, Mường Lát được nhắc đến với bao yêu thương. Quang Dũng là một trong nhiều nhà thơ đã gợi nhớ trong hồn người, trong địa danh, những tên làng, tên núi. Những địa danh này đã từng gắn bó thân thiết với tác giả với những kỷ niệm với đầy đã đi sâu vào tiềm thức của nhà thơ. Ngoài ra, những địa danh này còn khiến người đọc hình dung đến những vùi đất hoang vu hẻo lánh nơi “thâm sơn cùng cốc”.

Nhớ về những người đồng đội, điều đầu tiên là nhớ về những nẻo hành quân chiến đấu như kéo dài đến vô tận. Bao núi cao, đèo cao, dốc thăm thẳm dựng thành trước mặt. Dốc thì lên “khúc khuỷu” quanh co gập gềnh, dốc xuống thì “thăm thẳm” nhữ dẫn xuống vực xâu . Có những cồn mây cao vút, vắng vẻ, hoang vu heo hút: “ Dốc lên khúc khuỷu dốc thẳm thẳm. Heo hút cồn mây súng ngửi trời.”

Những từ ghép như, từ láy giàu sức tạo hình đặt liên tiếp nhau đã cực tả những cái gian khổ, gian truân của chiến trường miền Tây. Hình ảnh “súng ngưởi trời” vừa gợi tả được độ cao đỉnh núi Tây Bắc với mây trắng bao phủ quanh năm vưa làm nổi bật lên tình thần lạc quan yêu đời vui tươi của người lính Tây Tiến.

Tâm trạng của tác giả dường như có sự chuyển biến khi nói đến sự khắc nghiệt của rừng núi làm ông nhớ về những cuộc hành quân gian khổ”

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa. Gục bên súng mũ bỏ quên đời”. Những gian khổ dường như đã vượt qua sức chịu đựng của con người. Nhưng những người lính chỉ giục xuống khi chân không còn bước được nữa, gục xuống ngay đường đi trong tư thể của người chiên sĩ đang hành quân với quan trang vũ khí của mình. Các anh đã “bỏ quên đời” – một cái chết nhẹ nhàng thanh thản không đau thương mà xoáy sau vào lòng người. Hai câu thơ của Quang Dũng nó về sự đau thương mất mát nhưng không bi thương mà vẫn đầy chất hiên ngang tự tại như phẩm chất người lính Tây Tiến. Họ đã vì tổ quốc mà hi sinh cả tuổi thanh xuân nhưng cái hi sinh đó nhẹ nhàng như bỏ quên một vật gì đó thảnh bình thường.

Vẫn bằng tâm trạng nhớ thương vô hạn Quang Dũng đã tiếp tục nói nhớ của mình về vẻ âm u hoàng dã của miên Tây. Nỗi nhớ giờ đây dã không chỉ được mở theo chiệu không gian mà còn được khám phá ở chiều thời gian, với những đe dọa khung khiếp luôn luôn rình rập con người: “ Chiều chiều oai linh thác gầm thét. Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.

Đây chính là những ấn tượng in đậm trong ký ức người lính Tây Tiến và miền Tây qua những cuộc hành quân. Rừng núi vốn đã hiểm trở nay lại được khoác thêm màu sắc huyền bí của cảnh tượng hoang vu. Tiếng thác gầm thét, tiếng cọp trêu người chắc chắn không làm cho ai nản lòng. Nhưng tác giả với cách nhìn lãng mạn đã tô đậm thêm cái lạ và nét rùng rợn của núi rừng miền Tây.

Quang Dũng còn nhớ cả những bản làng nơi đoàn quân dừng chân nghỉ. Một bữa cơm bộc khói, hương vị xôi nét với các cô gái xinh đẹp như những nhanh hoa rừng khiến bao vát vả cực nhọc của người linh đều tan biến. Đây cũng là niềm mong nỏi và niềm vui ấm áp của họ sau những chặng đường dài hành quân và giờ đây nó hiển a trong kí ức trong nỗi nhớ như hương vị ngọt ngào:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai châu mùa em thơm nếp xôi”

Bức tranh thật nên thơ, cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao gian khổ băng rừng, vượt núi, đoàn quân Tây Tiến tạm dừng chân, được nghỉ ngơi bên những bản làng, tình cảm đó mới thắm thiết, ấm áp làm sao. Một kỷ niệm êm đềm, cảm động được tác giả gửi vào thơ với giọng thơ êm ái, trìu mến. Hương vị ấy mãi mãi là mảnh tâm hồn người cnas bộ khang chiến, là kỷ niệm đẹp trong lòng anh bộ đội nhưng những năm kháng chiến trường kỳ.

Bằng cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh vừa đặc sắc vừa tài hoa Quang Dũng đã khắc họa thành công khung cảnh chiến trường Tây Bắc và xây dựng nên một tượng đài về người lính cụ Hồ. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua , những dòng thơ hồi tưởng của Quang Dũng về chiến trường, về đồng đội cùng vào sinh ra tử một trận mạc vẫn đem đến cho tuổi trẻ chúng ta bao xúc động, tự hào.

Bài mẫu 3: Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền tây Bắc Bộ và những người đồng đội...

Bài làm

Chiến tranh qua rồi. Thế hệ trẻ hôm nay không còn phải nghe những tiếng đạn bom gào thét đen kịt một vùng trời như những người lính năm xưa phải chứng kiến. Biết bao nhiêu người đã ngã xuống, bao nhiêu người đã phải bỏ lại một phần cơ thể mình trên chiến trường xa xôi… Khi chúng ta đang được tung tăng cắp sách tới trường, thì ở đâu đó có những trái tim đang nghẹn ngào, thổn thức với những kí ức đầy đau thương nhưng cũng đầy oanh liệt của năm tháng chiến tranh gian khổ khi xưa. Trong nỗi nhớ ấy, nhà thơ Quang Dũng đã viết :

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !

               .......

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Đoạn thơ trích trong bài Tây Tiến do Quang Dũng viết cùng với nỗi nhớ da diết về đoàn quân Tây Tiến, mà trong đó chính bản thân ông cũng là một người lính. Ông đã cùng đồng đội trải qua biết bao nhiêu gian khổ, bao nhiêu khó khăn, nay hòa bình lập lại cũng là lúc mọi người chia tay nhau trở về quê nhà. Ông nhớ lại kỉ niệm năm xưa, nhớ lại những gì mà đoàn quân đã trải qua… Bao nhiêu xúc cảm ùa về, ông dãi bày lên trang giấy cùng những vần thơ chân thành, giản dị.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !

Câu thơ mở đầu như khởi nguồn dòng cảm xúc đang trào dâng trong lòng nhà thơ. Theo sau đó là dấu chấm than ẩn chứa bao nghẹn ngào, lưu luyến khó nói được thành lời. Nhớ ! Mỗi nỗi nhớ chơi vơi…. Không ai hiểu nhớ chơi vơi là nỗi nhớ như thế nào nhưng có lẽ trong giây phút này, nhà thơ chỉ muốn được chạy ngay đến bên đồng đội của mình, ôm chầm lấy họ trong vòng tay thắm thiết, rồi cùng nhau ôn lại những kỉ niệm của một thời chiến tranh gian khổ nơi rừng thiêng nước độc với bao hiểm nguy, trắc trở rập rình. Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông… những cái tên đã trở thành dấu ấn trong mỗi người lính mà họ không bao giờ quên. Quang Dũng cũng vậy, bước chân họ đã cùng nhau trải qua biết bao sương gió, bao mỏm đá gập ghềnh, cùng nhau lội qua bao con suối, cùng nhau vượt thác, vượt đèo để chiến đấu hết mình vì Tổ quốc mai sau. Có những khi phải vượt qua con dốc khúc khuỷu, thăm thẳm, hay những ngọn đồiHeo hút cồn mây súng ngửi trời… Nhà thơ tái hiện lại những hiểm nguy trên con đường hành quân, người đọc có thể dễ dàng cảm nhận được trong cuộc hành trình ấy có rất nhiều trắc trở, nhưng giọng thơ của tác giả lại thể hiện sự hào hứng và tinh thần sẵn sàng, không bao giờ quản ngại khó khăn.

Nhưng hỡi đồng đội thân yêu, hỡi những người lính can đảm, giàu lòng hi sinh, dù tinh thần có sắt đá đến mấy thì thân xác này vẫn chỉ là máu, là thịt, là xương. Và rồi, cũng đã có người ngã xuống giữa muôn trùng sóng gió :

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời !

Có lẽ lúc này nước mắt nhà thơ đang thầm rơi trong lòng và trên đầu ngòi bút của ông như chất chứa bao cảm xúc nghẹn ngào. Không gì quý bằng mạng sống, nhưng nếu ai cũng chỉ biết giữ mạng sống cho riêng mình thì đất nước đâu có ngày được bình yên ? Bởi thế trong hình ảnh người lính ngã xuống vẫn ánh lên niềm quyết tâm rằng : anh sẵn sàng hi sinh cho đàn em, cho đồng bào, cho đất nước. Mạng sống quý thật đấy, đã mất đi rồi không bao giờ lấy lại được nữa, nhưng anh nguyện hiến dâng mạng sống mình cho những mạng sống khác được có ngày hạnh phúc, yên vui. Sự hi sinh của anh thật cao cả biết nhường nào. Tác giả đã đặt dấu chấm than cuối câu như một lời tiễn biệt linh thiêng để tiễn đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng. Đất nước này và thế hệ trẻ sau này mãi mãi nhớ ơn anh – những người lính đã chẳng tiếc thân mình, lại càng không tiếc máu và xương của mình cho thế hệ hôm nay. Và Quang Dũng – ông cũng tự thấy mình may mắn khi còn lành lặn trở về. Bởi thế, nỗi nhớ về đồng đội trong ông chưa bao giờ nguôi. Trong những lúc khó khăn nhất, gian khổ nhất, người ta mới thấm thía nhất tình người là gì. Những người lính – mỗi người một phương, nhưng luôn cùng chung một chí hướng là hướng về đất nước, hướng về hàng trăm nhân dân, hàng trăm em nhỏ đang thao thức được cắp sách tới trường. Thế nên, dù phải vượt qua bao gian khó, phải liều mình băng qua đạn bom, những người lính Tây Tiến nói riêng và người lính của cách mạng Việt Nam nói chung luôn sẵn sàng cống hiến hết tất cả những gì mình có. Tuổi trẻ, ước mơ, hoài bão và tình yêu nồng nàn trong sáng… các anh đều gác lại vì anh hiểu rằng phía sau mình còn biết bao nhiêu ước mơ, bao nhiêu đời trẻ đang sống, đang khát khao được độc lập, tự do, được hòa bình thống nhất.

Trong nỗi nhớ nồng nàn da diết, Quang Dũng cũng không quên có những Đêm Mường Hịch cọp trêu người, hay những chiều chiều oai linh thác gầm thét… Dù tất cả đã trở thành dĩ vãng nhưng xúc cảm về những năm tháng ấy vẫn còn mãi trong tim nhà thơ, trong tim những người lính đã từ cõi chết trở về. Và rồi, khi đạn bom lắng xuống, nhà thơ lại nhớ hình ảnh của người con gái giấu xôi nuôi quân giữa rừng :

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Mùa em – chỉ có những người lính Tây Tiến và Quang Dũng mới hiểu mùa em là mùa như thế nào. Mùa mà mùi thơm của cơm nếp làm ấm lòng người chiến sĩ, mùa của những người con gái hiền dịu, khéo léo và can đảm, chịu thương chịu khó làm hậu phương vững chắc cho các anh có cơm ăn để giữ sức đánh lại kẻ thù.

Đoạn thơ chỉ có bấy nhiêu câu nhưng là cả một miền kí ức đáng nhớ trong lòng tác giả. Ở đó có hình ảnh người lính vừa oanh liệt, vừa bi tráng. Có người đã trở về với quê hương, đoàn tụ với gia đình, nhưng có những người đã mãi mãi bỏ lại đời xanh trên con đường hành quân đầy gian khó. Bao nhiêu cảm xúc vừa nhung nhớ, vừa hạnh phúc, và vừa cảm thương cho người lính được tác giả thể hiện trong từng câu thơ, từng vần chữ. Đoạn thơ đã cho người đọc thấu hiểu thêm về những năm tháng chiến tranh của dân tộc, đồng thời cảm nhận được công lao to lớn và tình đồng đội thắm thiết của đoàn quân Tây Tiến. Hòa bình đã lập lại nhưng những người lính ấy dù còn hay đã mất vẫn mãi mãi trường tồn cùng đất nước Việt Nam.

Bài mẫu 4: Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền tây Bắc Bộ và những người đồng đội....

Bài làm

Giữa cái bộn bề của thị trường thơ hôm nay, lật trang sách cũ, gặp Tây Tiến của Quang Dũng, chợt xôn xao cõi lòng theo những vần thơ đượm màu kiêu bạc hào hoa: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi... Mai Châu mùa em thơm nếp xôi".

Thơ hay có sức rung động mãnh liệt là vậy. Không cần tỉ mẩn bóc từng câu từng chữ mà thấm vào lòng người sự rung cảm chân thật đến run rẩy từng làn da thớ thịt. Tây Tiến đã thực sự chinh phục người đọc bằng tâm trạng của người trai ra đi cứu nước trong buổi đầu kháng chiến – với tâm tư in bóng trong dáng hình sông núi: 

”Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi 

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi 

Mường Lát hoa về trong đêm hơi 

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm 

Heo hút cồn mây súng ngửi trời 

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống 

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi...” 

Cảnh ấy cũng là tình. Cũng là sương, là hoa, là mây, là mưa – những chi tiết thường gặp trong thơ cổ – nhưng còn đượm thêm không khí trầm hùng của thời đại được diễn tả bằng những từ ngữ, thanh điệu khi đọc lên ta cảm thấy ngang tàng. Hình ảnh của một đoàn quân mỏi đi trong cái khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, giữa cái bồng bềnh sương khói chơi vơi được tác giả phác hoạ bằng những nét chấm phá tài tình. Con mắt thơ không dừng lại ở trong không gian rừng núi mà còn mở ra một không gian – tâm trạng của một hồn thơ chiến sĩ. Phảng phất một chút Lý Bạch trước Hoàng Hà – ngút ngát chí tang bồng của người trai thời loạn. Trong gian nan của người chiến sĩ Tây Tiến, ta vẫn gặp chút hóm hỉnh ở hình ảnh súng ngửi trời. Chạm mặt với thực tế khắc nghiệt – song chất hào hoa lãng tử không mất đi mà lại càng được tô đậm thêm, chân thật sống động trong những câu thơ đượm tình quê, tình đồng đội, tình quân dân. Một hiện thực về người lính Tây Tiến – anh Bộ đội Cụ Hồ trong những năm đầu chiến đấu gian khổ. Đó là cơn mưa gợi nỗi nhớ nhà sâu thẳm, là sợi khói cơm thơm quyện chặt tình người, một bóng hình đong đưa làm xao xuyến những trái tim trai trẻ... 

Bài thơ có nói đến hy sinh, mất mát, gian khổ nhưng cảm xúc hào hùng của lớp người “ra đi bảo tồn sông núi” đã lấn át cái bi luỵ buồn thương. Đoàn binh Tây Tiến trong thơ Quang Dũng như một sự kết tụ của tráng khí muôn đời, pha chút lãng mạn kiểu Kinh Kha “một đi không trở lại”. Phải chăng với tinh thần “coi cái chết nhẹ tựa lông hồng” mà toàn bài thơ mặc dù có nói đến chết chóc nhưng giọng điệu rất bình thản: anh về đất? Phải chăng khi xác định chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh, người chiến sĩ đã nhận ra mục đích của cuộc chiến đấu còn lớn hơn gấp vạn lần những gian khổ , hy sinh? 

Bài thơ không cường điệu hoá cảm xúc dẫu trong âm điệu gân guốc, khoẻ khoắn của toàn bài có những từ ngữ mang hơi hướng cổ điển như xiêm áo, dữ oai hùm, mồ viễn xứ, áo bào, khúc độc hành và cách diễn đạt tưởng chừng lạ lẫm tràn ngập không khí lãng mạn. Nếu chỉ chăm chăm đi tìm chất thép trong bài thơ theo quan điểm xã hội học thiển cận thì chẳng khác nào cầm dao đâm vào cái đẹp. Cái đẹp của bài thơ viết ra từ lửa máu đã làm rung lên những cảm xúc đồng điệu của bao thế hệ.

Nhà thơ Trần Lê Vân, người bạn thân, đã từng sống nhiều năm, từng in thơ chung với Quang Dũng viết về hòan cảnh Quang Dũng sáng tác bài thơ Tây Tiến như sau:

“Đòan quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đòan 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ), anh viết bài tho Tây Tiến.”

Muốn hiểu được bài thơ Tây Tiến, truớc hết cần phải có những hiểu biết về đoàn quân Tây Tiến cùng với địa bàn hoạt động của nó. Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Lào-Việt, đánh tiêu hao địch ở Thượng Lào để hỗ trợ cho cuộc kháng chiến ở những vùng khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Thuợng Lào: từ Châu Mai, Châu Mộc sang tận Sầm Nứa rồi vòng về qua miền tây Thanh Hóa. Những nơi này, lúc đó còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng dày, có nhiều thú dữ.

Những người lính Tây Tiến phần đong là thanh niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả những học sinh, sinh viên. Sinh hoạt của những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau không có thuốc men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn vì đánh trận, tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và hòan cảnh sống cực kì gian khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thanh lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn.

Bài thơ Tây Tiến có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng. Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi đầy tình cảm, cảm xúc của nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và cái tuyệt mĩ.

Thiên nhiên Tây Bắc, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình ảnh những cô gái, những con người Tây Bắc càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Chất lãng mạn được thể hiện chủ yếu ở cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẳn sàng xả thân, hy sinh tất cả cho lý tưởng chung của cộng đồng, của tòan dân tộc.

Tây Tiến không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không lụy. Cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng. Chất lãng mạn hòa hợp với chất bi tráng tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.

Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian và thời gian:

Sông Mã xa rồi Tay Tiến ơi !

Nhớ về rừng núi nhó chơi vơi

Sài Khao sương lấp đòan quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nỗi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. Hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hóa nỗi nhớ, khơi nguồn cho cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày,…liên tiếp xuất hiện ở những câu thơ sau:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Khổ thơ này là một bằng chứng “thi trung hữu họa”. Chỉ bằng bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hòanh tráng diễn tả sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng Tây Bắc, địa bàn họat dộng của đòan quân Tây Tiến. Hai câu thơ đầu, những từ đẩy giá trị tạo hình khúc khủyu, thăm thẳm. Cồn mây, súng ngửi trời đã diễn tả thật chính xác sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đồi Tây Bắc. Hai chữ “ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây , mây nổi thành cồn “heo hút”. Người lính trèo lên những ngọn núi cao tưởng chừng như đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, dổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Nếu như câu thứ ba là nhìn lên và nhìn xuống thì câu thứ tư là nhìn ngang. Có thể hình dung cảnh nhữngngười lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt mùng sương rừng mây núi thấy thấp thóang những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi.

Bốn câu thơ này phối hợp với nhau tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét rất mềm mại. Quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội họa: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gam màu lạnh làm dịu lại, như xoa mát cả khổ thơ.

Từ khóa tìm kiếm google:

bài viết số 2 lớp 12, văn mẫu lớp 12 hay nhất, tâm trạng tác giả khi nhớ về miền tây bắc bộ và đồng đội, nghị luận văn học lớp 12, văn mẫu 12 bài viết số 3 nghị luận văn học.
Phần trên, hocthoi.net đã soạn đầy đủ lý thuyết và bài tập của bài học: Văn mẫu 12 bài viết số 3 đề 1b: Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền tây Bắc Bộ và những người đồng đội trong đoạn thơ sau:... . Bài học nằm trong chuyên mục: Văn mẫu 12. Phần trình bày do Tech120 tổng hợp và thực hiện giải bài. Nếu có chỗ nào chưa rõ, có phần nào muốn hiểu rộng thêm, bạn đọc vui lòng comment bên dưới. Ban biên tập sẽ giải đáp giúp các bạn trong thời gian sớm nhất.

Bài soạn các môn khác

Bình luận